CHUYỆN HUYỀN DIỆU Ở THÁNH THẤT THÀNH CÔNG
CHUYỆN HUYỀN DIỆU Ở THÁNH THẤT THÀNH CÔNG
Sen Trắng
Sen Trắng
Hàng năm cứ mỗi độ Thu về, người tín hữu Cao Đài nhất là phái nữ rộn ràng chuẩn bị chào đón ngày Hội Yến Bàn Đào để chầu lễ Đức Mẹ Diêu Trì và Cửu Vị Tiên Nương. Rằm tháng Tám Đinh Hợi năm nay, lễ Hội Yến Bàn Đào và Đại Hội Nữ Phái lần thứ 72 trùng vào thời gian tổ chức khóa tu Thu Phân cho các cấp thiền sinh Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý. Đạo hữu các nơi về dự khá đông. Ban tổ chức khá vất vả, vừa lo thu xếp chỗ ở cho thiền sinh, rồi lại phải tạm dời một số chỗ ở để có thêm nơi cho khách thiện tâm chầu lễ. Dù đang trong khóa tịnh nhưng các chị em vẫn cùng nhau thu xếp, lo trang hoàng Bửu Điện, chưng bông trái, tập dượt nghi lễ… Ban trù phòng vừa lo cơm nước hộ tịnh vừa lo cơm nước đãi đạo hữu xa gần tìm về Cơ Quan dịp này. Tuy bận rộn, nhọc mệt, nhưng ai cũng vui, bởi mỗi năm chỉ có một ngày hội lớn nhứt của phái nữ.
Đại Hội Nữ Chung Hòa năm nay hân hạnh đón tiếp đại diện Nữ Chung Hòa của 28 thánh sở về tham dự, có đoàn ở tận Cà Mau xa xôi. Có 18 phúc trình đạo sự Nữ Chung Hòa các nơi trong sáu tháng qua. Mỗi nơi một vẻ, nhưng có một nét chung là cùng nhau hành đạo, giúp nhau tu tiến, trau dồi giáo lý, làm từ thiện tùy theo khả năng của chị em. Mỗi nơi đều nói lên sự cố gắng và gặt hái được những kết quả đáng mừng.
Đại hội đặc biệt chú ý phúc trình của đạo tỷ Nguyễn Thị Kim Liêng, thuộc Nữ Chung Hòa thánh thất Thành Công (ấp Thành Nhì, xã Thành Công, thuộc huyện nghèo Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang). Xã Thành Công có năm ấp với 5.600 nhân khẩu mà Thành Nhì là ấp nghèo ở vùng sâu, được trợ cấp theo Nghị định 135 của Nhà nước. Thiên nhiên ở đây khắc nghiệt. Sáu tháng mưa có nước ngọt, người dân làm lúa được mỗi năm một mùa, chỉ mong sao có đủ lúa ăn cả năm. Sáu tháng nắng còn lại, nước mặn, đồng khô cỏ cháy, trồng trọt không được, có người xoay ra nuôi tôm. Nuôi tôm thì năm ăn năm thua, bỏ tiền và công sức mà có khi chẳng thu về được vốn.
Người dân ở Thành Công chân chất, cần cù, nhưng cuộc sống vật chất quá đỗi khó khăn. Đời sống tinh thần cũng khó vượt lên khỏi hoàn cảnh gian nan đó. Địa phương này không có nhà thờ Thiên Chúa Giáo. Chỉ có một ngôi chùa Phật nho nhỏ, rất ít Phật tử. Sống ở một nơi như vậy, mỗi khi gặp điều gì vướng mắc trong đời sống tinh thần hay tâm linh, người dân thường rất lúng túng.
Thánh thất Thành Công thuộc Hội Thánh Ban Chỉnh Đạo, trước đây cất bằng cây và lá dừa nước đơn sơ. Mới độ năm năm nay, bổn đạo kẻ góp công người góp của, lần lần xây được thánh thất khang trang hơn, đủ cho hơn một trăm đạo hữu có chỗ thờ cúng được khá hơn. Ngẫu nhiên những lúc thánh thất Thành Công gặp khó khăn, bỗng dưng có quới nhơn từ nơi khác ghé đến trợ giúp. Người dân gần xa quanh thánh thất tuy không có Đạo, thỉnh thoảng vẫn tới thắp hương, xem đây như một chỗ dựa tâm linh.
Cách đây không lâu, một hôm bà Nguyễn Thị Tốt (62 tuổi), người ấp Thành Nhất, cùng xã Thành Công, đến gặp ông Chánh Hội Trưởng thánh thất Thành Công tỏ bày việc nhà và nhờ giúp đỡ. Nguyên cha bà Tốt là Nguyễn Văn Thiên từ trần năm 2004, thọ 92 tuổi. Gần đây bà Tốt nằm mơ thấy cha về kêu cứu: “Tốt ơi! Cứu ba với. Chỉ có con là cứu được ba thôi. Ba khổ lắm con ơi!” Trong mơ bà Tốt nhìn thấy ông Thiên nằm lăn lộn dưới đất, bị một lũ quạ đen xúm lại xâu xé, mổ lủng lưng, moi hai mắt, mình mẩy bê bết máu. Bà vội chạy đến đỡ đầu cha, đàn quạ vụt bay lên mất dạng. Liên tiếp mấy đêm bà đều nằm mơ thấy vậy.
Bà Tốt không phải là tín đồ Cao Đài, nhưng biết ăn chay trường, có lòng tin tưởng Trời Phật. Vì thế bà tìm đến chùa Phật trong vùng xin cúng giải nạn cho cha nhưng không kết quả, vì ác mộng vẫn hiện về.
Sau đó, con gái bà Tốt là Loan sinh sống ở thành phố Hồ Chí Minh trở về quê kể với bà rằng đã hai lần chị nằm mơ thấy ông ngoại kêu cứu. Chị cũng thấy ông ngoại bị đàn quạ cấu xé, máu me dầm dề cả người. Bà Tốt bàng hoàng, sửng sốt vì giấc mơ của hai má con sao giống nhau đến thế!
Sau nhiều đêm ngày xót xa, trăn trở thương cảm hồn cha phải chịu khổ nạn, bà Tốt quyết định đến gặp ông Chánh Hội Trưởng thánh thất Thành Công tỏ bày sự việc, mong ông có cách cứu giúp.
Lần đầu tiên gặp một sự việc ly kỳ như vậy, ông Chánh Hội Trưởng suy nghĩ đắn đo mãi. Cuối cùng ông hướng dẫn bà Tốt làm một sớ cầu Đạo, xin nhập môn vô vi cho vong linh cha. Bà Tốt cũng cần làm lễ cầu siêu cho cha liên tục vào các ngày sóc vọng hàng tháng và thành tâm làm công quả một thời gian.
Bà Tốt làm y theo hướng dẫn như trên. Đến rằm tháng bảy Đinh Hợi, bà đã cầu siêu cho cha được năm lần. Mỗi lần bà Tốt góp công quả 100.000 đồng và hồi hướng cho cha. Riêng ngày rằm tháng bảy Đinh Hợi, bà công quả 500.000 đồng để nấu cơm cúng cầu siêu cho bá tánh ở thánh thất, và thêm 500.000 đồng để giúp những người nghèo khổ.
Sau đó, vào hai đêm 17, 18 tháng 7 Đinh Hợi, bà Tốt nằm mộng thấy cha về, mặc áo dài trắng, đội khăn đóng đen. Ông vui vẻ đi trong một đoàn người cũng mặc áo dài trắng và đội khăn đóng đen. Có người còn búi tóc nữa. Cha bà nói: “ Ba vô đạo Cao Đài rồi. Con đừng lo cho ba nữa. Bây giờ ba khỏe lắm, không ai bắt bớ, giam cầm ba nữa đâu.”
Cùng thời gian này, chị Loan ở trên thành phố Hồ Chí Minh cũng nằm mơ thấy y như vậy. Chị kể với bà Tốt: “Con thấy ông ngoại vui lắm. Không khóc lóc cầu cứu như những lần trước. Ông ngoại mặc áo dài trắng, đội khăn đóng đen, đi chung với bạn đạo nữa.”
Gia đình bà Tốt mừng khôn xiết, lập tức đến báo tin cho ông Chánh Hội Trưởng và bổn đạo trong họ Đạo chia sẻ điều kỳ diệu này. Tin vui lan nhanh, kết quả là trong những ngày còn lại của mùa vu lan Đinh Hợi, nhiều gia đình đã đến thánh thất Thành Công xin làm lễ cầu siêu cho cửu huyền thất tổ.
Gia đình bà Tốt mừng khôn xiết, lập tức đến báo tin cho ông Chánh Hội Trưởng và bổn đạo trong họ Đạo chia sẻ điều kỳ diệu này. Tin vui lan nhanh, kết quả là trong những ngày còn lại của mùa vu lan Đinh Hợi, nhiều gia đình đã đến thánh thất Thành Công xin làm lễ cầu siêu cho cửu huyền thất tổ.
Tháng Tám Đinh Hợi
Đại Thừa Chơn Giáo : 02 THÁNH TỰA
Đại Thừa Chơn Giáo : 02 THÁNH TỰA
THÁNH TỰA TRƯỚC-TIẾT TÀNG-THƠ Đàn 7 Novembre 1936 (24 tháng 9 - Bính Tý) TỰA của ĐỨC LÝ THI ĐỘNG lòng thương xót buổi đời nguy, ĐÌNH hội Phật Tiên đã mấy kỳ. HỒ điệp mê man chưa tỉnh thức, Đại Tiên Trưởng giáng hoát Vô-Vi. Bần-Đạo chào chư Đạo-tâm. Bần-Đạo đắc lịnh giáng đàn, trước phô diễn đôi lời Đạo-Đức hầu giác ngộ chúng sanh thức tỉnh tâm hồn mà tri tầm nguồn cội, sau nữa mừng cho ĐẠI-ĐẠO ban hành quyển “ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO” để minh truyền Diệu-Pháp độ rỗi Nguyên-Nhân, thoát kiếp luân-hồi, huờn nguyên phản bổn. THI ĐẠI-Đức Nam-Phương hóa Đạo Huỳnh, THỪA cơ mật nhiệm thức Tâm-Linh. CHƠN-Truyền Đạo chuyển quy Linh-Tánh, GIÁO-dục hồn dân trí huệ minh. BÀI Minh Chơn-Đạo thời kỳ mạt kiếp, Thức tỉnh đời cho kịp Long-Hoa, Phổ thông Chơn-Lý cộng-hòa, Nhận nhìn cả thảy một CHA trọn lành. CAO-ĐÀI-GIÁO lưu hành phổ tế, Pháp Chánh-Truyền cứu thế thoát thân; Bốn phương phát triển tinh-thần, Gội nhuần võ lộ hồng ân CAO-ĐÀI. Gần tận thế NGÔI-HAI ra mặt, Đặng toan phương dìu dắt chúng-sanh; Chỉ tường cội phước, nguồn lành, Giác mê tỉnh ngộ, tu hành siêu thăng. Cuộc tang thương dữ dằn trước đó, Mà nào ai có rõ chi đâu! Rồi đây chung chịu thảm sầu, Không nương Đạo-Đức khó hầu tránh tai. Nạn khổ cuộc tương lai dữ dội, Nhơn vật đồng thay đổi tiêu tan, Có ai thấu máy hành tàng? Dinh hư tiêu trưởng rõ ràng không sai ! Trời Phật thấy trần-ai đại họa, Nên giáng phàm vớt cả toàn linh, Rải gieo Chơn-Lý Đạo-Huỳnh, Quy nguyên Tam-Giáo phục bình cơ quan; Phóng thêm một con đàng chánh đại, Để người tầm trở lại Bổn-Nguyên. Lâu đời Tam-Giáo thất truyền, Ngày nay ĐẠI-ĐẠO dựng giềng quy mô; Chỉ thấu chỗ Hư-Vô tịch diệt, Khoa Bí-Truyền vốn thiệt cao siêu, Luyện thành bất diệt, bất tiêu, Vững vàng bền bỉ tiêu-diêu lạc nhàn. Bớ chúng-sanh ! Linh Thoàn chờ rước, Rước những người hữu phước tiền căn, Đời mà cải hối ăn năn, Tu Đơn Luyện Đạo siêu thăng cõi ngoài. THI Ngoài cảnh Thần Tiên báu lạ lùng, Chứa người Phước Đức hưởng thung dung, Một màu thanh bạch không dời đổi, Khoái lạc ở an mãi đến cùng. Thời kỳ tận thế, nên chi Đại-Đạo phục hưng, để độ rỗi Linh-Căn quy hồi Cựu Vị. Từ Bàn-Cổ sơ khai đến ngày Thánh-Nhơn xuất thế đem Chơn-Truyền thuyết minh Lý Đạo, bành trướng khắp bốn phương để tỉnh thế độ đời cho rõ Lý cao siêu của Trời Đất, hầu tầm đường siêu thoát cho thuận với thiên-nhiên cơ Tạo-Hóa. Tam-Giáo phát hưng độ người Thành Đạo hằng hà sa số. Đến ngày nay đã nhiều đời, nên chi cái Giáo-Lý thất lạc Chơn-Truyền, số tu luyện thì nhiều mà thành Phật Tiên không đặng là vì khoa Nội-Giáo Bí-Truyền rất là u ẩn, Phật Tiên chẳng dám lộ bày để Khẩu Khẩu tương truyền, Tâm Tâm tương ấn; chớ không bày lậu ra cho người thế gian biết đặng. PHÁP-ĐẠO u huyền đã chép vào ĐƠN-THƠ để lưu truyền lại, nhưng những lời trong đó rất ẩn vi, khó hiểu, khó tầm. Mỗi vị tả ghi vào một ý, đặt tên ra trăm ngàn thứ, làm cho đời sau khảo cứu lấy làm mơ-hồ. Bần-Đạo xin kiếu. Thăng.
THÁNH TỰA TRƯỚC-TIẾT TÀNG-THƠ Đàn 7 Novembre 1936 (24 tháng 9 - Bính Tý) TỰA của ĐỨC LÝ THI ĐỘNG lòng thương xót buổi đời nguy, ĐÌNH hội Phật Tiên đã mấy kỳ. HỒ điệp mê man chưa tỉnh thức, Đại Tiên Trưởng giáng hoát Vô-Vi. Bần-Đạo chào chư Đạo-tâm. Bần-Đạo đắc lịnh giáng đàn, trước phô diễn đôi lời Đạo-Đức hầu giác ngộ chúng sanh thức tỉnh tâm hồn mà tri tầm nguồn cội, sau nữa mừng cho ĐẠI-ĐẠO ban hành quyển “ĐẠI-THỪA CHƠN-GIÁO” để minh truyền Diệu-Pháp độ rỗi Nguyên-Nhân, thoát kiếp luân-hồi, huờn nguyên phản bổn. THI ĐẠI-Đức Nam-Phương hóa Đạo Huỳnh, THỪA cơ mật nhiệm thức Tâm-Linh. CHƠN-Truyền Đạo chuyển quy Linh-Tánh, GIÁO-dục hồn dân trí huệ minh. BÀI Minh Chơn-Đạo thời kỳ mạt kiếp, Thức tỉnh đời cho kịp Long-Hoa, Phổ thông Chơn-Lý cộng-hòa, Nhận nhìn cả thảy một CHA trọn lành. CAO-ĐÀI-GIÁO lưu hành phổ tế, Pháp Chánh-Truyền cứu thế thoát thân; Bốn phương phát triển tinh-thần, Gội nhuần võ lộ hồng ân CAO-ĐÀI. Gần tận thế NGÔI-HAI ra mặt, Đặng toan phương dìu dắt chúng-sanh; Chỉ tường cội phước, nguồn lành, Giác mê tỉnh ngộ, tu hành siêu thăng. Cuộc tang thương dữ dằn trước đó, Mà nào ai có rõ chi đâu! Rồi đây chung chịu thảm sầu, Không nương Đạo-Đức khó hầu tránh tai. Nạn khổ cuộc tương lai dữ dội, Nhơn vật đồng thay đổi tiêu tan, Có ai thấu máy hành tàng? Dinh hư tiêu trưởng rõ ràng không sai ! Trời Phật thấy trần-ai đại họa, Nên giáng phàm vớt cả toàn linh, Rải gieo Chơn-Lý Đạo-Huỳnh, Quy nguyên Tam-Giáo phục bình cơ quan; Phóng thêm một con đàng chánh đại, Để người tầm trở lại Bổn-Nguyên. Lâu đời Tam-Giáo thất truyền, Ngày nay ĐẠI-ĐẠO dựng giềng quy mô; Chỉ thấu chỗ Hư-Vô tịch diệt, Khoa Bí-Truyền vốn thiệt cao siêu, Luyện thành bất diệt, bất tiêu, Vững vàng bền bỉ tiêu-diêu lạc nhàn. Bớ chúng-sanh ! Linh Thoàn chờ rước, Rước những người hữu phước tiền căn, Đời mà cải hối ăn năn, Tu Đơn Luyện Đạo siêu thăng cõi ngoài. THI Ngoài cảnh Thần Tiên báu lạ lùng, Chứa người Phước Đức hưởng thung dung, Một màu thanh bạch không dời đổi, Khoái lạc ở an mãi đến cùng. Thời kỳ tận thế, nên chi Đại-Đạo phục hưng, để độ rỗi Linh-Căn quy hồi Cựu Vị. Từ Bàn-Cổ sơ khai đến ngày Thánh-Nhơn xuất thế đem Chơn-Truyền thuyết minh Lý Đạo, bành trướng khắp bốn phương để tỉnh thế độ đời cho rõ Lý cao siêu của Trời Đất, hầu tầm đường siêu thoát cho thuận với thiên-nhiên cơ Tạo-Hóa. Tam-Giáo phát hưng độ người Thành Đạo hằng hà sa số. Đến ngày nay đã nhiều đời, nên chi cái Giáo-Lý thất lạc Chơn-Truyền, số tu luyện thì nhiều mà thành Phật Tiên không đặng là vì khoa Nội-Giáo Bí-Truyền rất là u ẩn, Phật Tiên chẳng dám lộ bày để Khẩu Khẩu tương truyền, Tâm Tâm tương ấn; chớ không bày lậu ra cho người thế gian biết đặng. PHÁP-ĐẠO u huyền đã chép vào ĐƠN-THƠ để lưu truyền lại, nhưng những lời trong đó rất ẩn vi, khó hiểu, khó tầm. Mỗi vị tả ghi vào một ý, đặt tên ra trăm ngàn thứ, làm cho đời sau khảo cứu lấy làm mơ-hồ. Bần-Đạo xin kiếu. Thăng.
Đại Thừa Chơn Giáo: 01 GIỚI THIỆU-PHÀM TỰ- BÀI CA TỤNG
Đại Thừa Chơn Giáo: 01 GIỚI THIỆU-PHÀM TỰ- BÀI CA TỤNG
11 tháng 9 - Bính Tý HUYỀN DIỆU VÔ CÙNG Quyển ĐẠI THỪA CHƠN GIÁO in vừa xong bữa thứ sáu 7 Mai. Bữa thứ bảy 8 Mai 1937 đóng xong được vài trăm cuốn, chúng tôi thiết Đại Đàn đảnh lễ Đức Chí Tôn mừng Kinh làm hoàn thành, luôn dịp chúng tôi dựng vài quyển ĐẠI THỪA CHƠN GIÁO trên Thiên Bàn. Mới hay còn một vài chỗ sai: hoặc điển ký viết trật, hoặc ấn công sắp lộn, nên Đức Chí Tôn sai Lý Thái Bạch Đại Tiên Trưởng giáng Đàn sửa lại, chỉ chỗ trật lộn trong nháy mắt; thật rõ ràng là huyền diệu phi thường. ĐỨC LÝ Đính chánh thêm vài chỗ tiếp lộn, in trật THI LÝ đào gặp tiết trái bông đơm, THÁI hóa phương phi đạo đức thơm, BẠCH ngọc đổ rền bừng mắt tỉnh, GIÁNG minh Chơn Pháp kíp lần xơm. (Cười). Lão chào chư hiền. Giờ nay Lão được lịnh Phụ Hoàng sai Lão đến đây đặng tuyển dượt “ĐẠI THỪA” lần chót; những chỗ tiếp trật, sắp in lộn, phải đính chánh lại. Để một quyển lại trên Thiên Bàn Lão xem xét, còn chư hiền lấy một quyển dò theo, Lão chỉ chỗ sai cho sửa. THI Phụng lịnh CAO TIÊN xét nét rồi, Chư hiền tiếp giá Lão về ngôi, Ban ơn nam nữ Tàng-Thơ tịnh, Công đức vĩnh viên chói rạng ngời.
Thăng. TIẾP ĐIỂN: THẦY các con, THẦY đại hỷ, đại hỷ các con. THI NGỌC sáng soi chung khắp vạn loài, HOÀNG thành Bửu Quyện khá tầm coi, THƯỢNG căn gặp đặng men chơn bước, ĐẾ lịnh ban ơn rất hẳn hòi. Ngày nay đã kết liễu tán thành, vậy Thầy cũng ước ao sao cho nhơn sanh thức lý, giác tâm quày bước về con đường trung đạo, thì các con có công trong đó còn được muôn ngàn hạnh phúc lớn lao. Thầy ban đặc ân cho mỗi con. THI Thánh Kinh ấn tống độ nguyên sanh, Cửa Đạo từ đây lấn giựt giành, Thuyền Bát rước đưa không ngớt khách, Các con lớn nhỏ hưởng ơn lành. Thăng.
11 tháng 9 - Bính Tý HUYỀN DIỆU VÔ CÙNG Quyển ĐẠI THỪA CHƠN GIÁO in vừa xong bữa thứ sáu 7 Mai. Bữa thứ bảy 8 Mai 1937 đóng xong được vài trăm cuốn, chúng tôi thiết Đại Đàn đảnh lễ Đức Chí Tôn mừng Kinh làm hoàn thành, luôn dịp chúng tôi dựng vài quyển ĐẠI THỪA CHƠN GIÁO trên Thiên Bàn. Mới hay còn một vài chỗ sai: hoặc điển ký viết trật, hoặc ấn công sắp lộn, nên Đức Chí Tôn sai Lý Thái Bạch Đại Tiên Trưởng giáng Đàn sửa lại, chỉ chỗ trật lộn trong nháy mắt; thật rõ ràng là huyền diệu phi thường. ĐỨC LÝ Đính chánh thêm vài chỗ tiếp lộn, in trật THI LÝ đào gặp tiết trái bông đơm, THÁI hóa phương phi đạo đức thơm, BẠCH ngọc đổ rền bừng mắt tỉnh, GIÁNG minh Chơn Pháp kíp lần xơm. (Cười). Lão chào chư hiền. Giờ nay Lão được lịnh Phụ Hoàng sai Lão đến đây đặng tuyển dượt “ĐẠI THỪA” lần chót; những chỗ tiếp trật, sắp in lộn, phải đính chánh lại. Để một quyển lại trên Thiên Bàn Lão xem xét, còn chư hiền lấy một quyển dò theo, Lão chỉ chỗ sai cho sửa. THI Phụng lịnh CAO TIÊN xét nét rồi, Chư hiền tiếp giá Lão về ngôi, Ban ơn nam nữ Tàng-Thơ tịnh, Công đức vĩnh viên chói rạng ngời.
Thăng. TIẾP ĐIỂN: THẦY các con, THẦY đại hỷ, đại hỷ các con. THI NGỌC sáng soi chung khắp vạn loài, HOÀNG thành Bửu Quyện khá tầm coi, THƯỢNG căn gặp đặng men chơn bước, ĐẾ lịnh ban ơn rất hẳn hòi. Ngày nay đã kết liễu tán thành, vậy Thầy cũng ước ao sao cho nhơn sanh thức lý, giác tâm quày bước về con đường trung đạo, thì các con có công trong đó còn được muôn ngàn hạnh phúc lớn lao. Thầy ban đặc ân cho mỗi con. THI Thánh Kinh ấn tống độ nguyên sanh, Cửa Đạo từ đây lấn giựt giành, Thuyền Bát rước đưa không ngớt khách, Các con lớn nhỏ hưởng ơn lành. Thăng.
KIM QUANG THẦN CHÚ
KIM QUANG THẦN CHÚ
Thiên Địa huyền tông, vạn khí bổn căn.
Quảng tu ức kiếp, chứng ngô ([1]) thần thông.
Tam giới nội ngoại, duy Đạo độc tôn.
Thể hữu kim quang, phúc ([2]) ánh ([3]) ngô thân.
Thị chi bất kiến, thính chi bất văn.
Bao la thiên địa, dưỡng dục quần sinh.
Tụng trì vạn biến, thân hữu quang minh.
Tam giới thị vệ, Ngũ Đế tư nghinh.
Vạn thần triều lễ, dịch sử lôi đình ([4]).
Quỷ yêu táng đởm, tinh quái vong hình.
Nội hữu phích lịch ([5]), Lôi thần ẩn danh.
Động huệ ([6]) giao triệt, ngũ khí huy đằng.
Kim quang tốc hiện, phúc hộ chơn hình.
Cấp cấp như Ngọc Hoàng Thượng Đế luật lịnh sắc.
([1]) Ngô: của ta. Ngô thần thông: Thần thông của ta.
([2]) Phúc: Che chắn, che đậy (để bảo vệ).
([3]) Ánh sáng phản chiếu lại.
([4]) Dịch sử: Sai khiến. Lôi: Sấm. Đình: Sét. Lôi đình: Sấm sét. Cả câu có nghĩa: Vạn thần đến chầu lễ, Sai khiến cho sấm nổ.
([5]) Phích lịch: Sét đánh. Chữ phích cũng đọc là tích.
([6]) Huệ: Trí huệ, trí sáng suốt của người đắc đạo. Động huệ: Trí huệ trong động. Động là nơi tiên ở, là động tiên. Vậy động huệ có thể hiểu là trí huệ của thần tiên.
GIẢI NGHĨA KIM QUANG THẦN CHÚ
Cái gốc huyền diệu của trời đất, là căn cội của vạn khí.
Tu hành trải qua vô số kiếp, chứng đắc được thần thông của ta.
Trong ngoài ba cõi, chỉ có Ðạo là tôn quý nhất.
Thân có ánh sáng vàng, che sáng rực rỡ bảo vệ thân ta.
[Nhưng] trông mà không thấy, và nghe mà chẳng được.
Trời đất bao la, nuôi dưỡng quần sinh.
Trì tụng muôn lần, thân thể sẽ sáng rỡ.
Ba cõi hầu cận và bảo vệ, Năm Ðế trông coi và đón rước.
Vạn thần đến chầu lễ, sai khiến cho sấm nổ.
Quỷ yêu sợ vỡ mật, tinh quái sợ mất hình (biến đi mất).
Bên trong có sấm nổ, Lôi thần giấu tên.
Trí huệ của thần tiên thông suốt, năm khí hừng xông lên.
Kim Quang mau hiện đến, bao phủ và bảo vệ bậc chân nhân.
Gấp rút tuân theo sắc lệnh của Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
Thiên Địa huyền tông, vạn khí bổn căn.
Quảng tu ức kiếp, chứng ngô ([1]) thần thông.
Tam giới nội ngoại, duy Đạo độc tôn.
Thể hữu kim quang, phúc ([2]) ánh ([3]) ngô thân.
Thị chi bất kiến, thính chi bất văn.
Bao la thiên địa, dưỡng dục quần sinh.
Tụng trì vạn biến, thân hữu quang minh.
Tam giới thị vệ, Ngũ Đế tư nghinh.
Vạn thần triều lễ, dịch sử lôi đình ([4]).
Quỷ yêu táng đởm, tinh quái vong hình.
Nội hữu phích lịch ([5]), Lôi thần ẩn danh.
Động huệ ([6]) giao triệt, ngũ khí huy đằng.
Kim quang tốc hiện, phúc hộ chơn hình.
Cấp cấp như Ngọc Hoàng Thượng Đế luật lịnh sắc.
([1]) Ngô: của ta. Ngô thần thông: Thần thông của ta.
([2]) Phúc: Che chắn, che đậy (để bảo vệ).
([3]) Ánh sáng phản chiếu lại.
([4]) Dịch sử: Sai khiến. Lôi: Sấm. Đình: Sét. Lôi đình: Sấm sét. Cả câu có nghĩa: Vạn thần đến chầu lễ, Sai khiến cho sấm nổ.
([5]) Phích lịch: Sét đánh. Chữ phích cũng đọc là tích.
([6]) Huệ: Trí huệ, trí sáng suốt của người đắc đạo. Động huệ: Trí huệ trong động. Động là nơi tiên ở, là động tiên. Vậy động huệ có thể hiểu là trí huệ của thần tiên.
GIẢI NGHĨA KIM QUANG THẦN CHÚ
Cái gốc huyền diệu của trời đất, là căn cội của vạn khí.
Tu hành trải qua vô số kiếp, chứng đắc được thần thông của ta.
Trong ngoài ba cõi, chỉ có Ðạo là tôn quý nhất.
Thân có ánh sáng vàng, che sáng rực rỡ bảo vệ thân ta.
[Nhưng] trông mà không thấy, và nghe mà chẳng được.
Trời đất bao la, nuôi dưỡng quần sinh.
Trì tụng muôn lần, thân thể sẽ sáng rỡ.
Ba cõi hầu cận và bảo vệ, Năm Ðế trông coi và đón rước.
Vạn thần đến chầu lễ, sai khiến cho sấm nổ.
Quỷ yêu sợ vỡ mật, tinh quái sợ mất hình (biến đi mất).
Bên trong có sấm nổ, Lôi thần giấu tên.
Trí huệ của thần tiên thông suốt, năm khí hừng xông lên.
Kim Quang mau hiện đến, bao phủ và bảo vệ bậc chân nhân.
Gấp rút tuân theo sắc lệnh của Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
Thiền là tâm vô niệm. Định là dừng lại tất cả.
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Tý thời 11 tháng 11 Kỷ Mùi (28-12-1979)
BẢO PHÁP CHƠN QUÂN chào chư Thiên ân tịnh viên nam nữ. Nhân cuộc hội đàm tại Cung Đâu Xuất, trên đường về, ĐỨC CHƠN NHƠN muốn vào thăm chư tịnh viên. Vậy chư Thiên ân thành tâm nghinh tiếp, Bổn Huynh xin lui. Thăng.
Tiếp điển :
Chào chư tịnh viên nam nữ.
Chào chư tịnh viên nam nữ.
THI
Đường về NHƯ Ý tạm dừng chơn,
Thăm viếng ĐẠO THIỀN lẽ thiệt hơn,
Có thấy CHƠN NHƠN nơi diện mục,
Hay còn dạo ngoạn chốn xuyên sơn.
Thăm viếng ĐẠO THIỀN lẽ thiệt hơn,
Có thấy CHƠN NHƠN nơi diện mục,
Hay còn dạo ngoạn chốn xuyên sơn.
Đã từ lâu Lão không có dịp đàm đạo cùng chư đệ muội. Nhân khóa tu Đông Chí, Lão tiện đường dừng bước ghé thăm, nhưng nếu ghé thăm suông Lão e phụ lòng thành kỉnh khi gặp gỡ, nên để đôi dòng đạo đức để chư tịnh viên đệ muội thêm sáng tỏ về lý đạo mà thực nghiệm công phu. Miễn lễ chư hiền đồng an tọa.
Mỗi kỳ vào khóa tu là chư đệ muội được vào thế giới Bồng Lai. Quả thật vậy, mà không phải ai cũng được như vậy, là bởi sao ?
Này chư hiền đệ muội ! Thiền là tâm vô niệm. Định là dừng lại tất cả. Chỗ công phu này đòi hỏi hành giả phải ngày ngày tu tập để đến khi cần hòa hợp cùng vận khí cơ thiên, mới có đủ tinh thần mà phóng phát điển lực trong cuộc điều hành vận chuyển, từ nhơn thân đến vũ trụ. Nếu công phu còn hời hợt non kém, nhân thể còn bị bốn mùa tám tiết đổi thay, đời sống vật chất lại chi phối rất nhiều làm tinh thần mờ mịt, nên vào thiền, tâm chưa dứt niệm, thân thể nặng nề, tê nhức, ngứa ngáy đủ điều, định chưa được nên bị hôn trầm ngủ gà ngủ gật, ngồi lưng chưa thẳng nên tấn hỏa không thông, đầu cúi quá tầm thân cong nên thối phù chưa suốt. Đó là bịnh chung của hành giả, nên chi công phu còn non kém, cần có tịnh đường kín đáo để tránh hàn khí tà độc nhiễm vào sanh bịnh.
Lão thấy chư đệ muội rất cố gắng, cũng cần cố gắng hằng ngày, đừng đợi đến đợt tu khóa tịnh. Khi nào không còn cố gắng mà tự nhiên thiền, tự nhiên định, vào khóa tu như vào cõi thần tiên, lúc ấy mới đủ tâm minh triết mà định đoạt tiền đồ và bảo trì hiện tại. Đó là tưới gốc sẽ sung cành vậy.
Lão để lời mừng chư đệ muội sẽ được tu học thêm trong những ngày sắp tới.
Về đợt tu Sơ Thiền, chư đệ muội là những người đi trước, nên viếng thăm và dẫn dắt cho những người đi sau, cần nhất là tâm hạnh. Thiếu tâm chí thành kiên trì thì nấc thang đại thừa khó bước lên, thiếu hạnh chơn tu thì dễ lạc vào bàng môn tả đạo. Tâm hạnh viên dung mới khỏi uổng công tu học. Đừng tưởng chốn huyền môn ra vào tự ý, trong khi Thiên luật vô tư, quỉ ma rình rập xô đẩy vào nẻo đọa vì phạm khinh đạo luật pháp Trời.
Chư đệ muội cũng quan tâm nhắc nhở đều này : Chưa nên thì rán cho nên, nếu sơ tâm lầm lỗi, sớm sám hối cải thừa. Nhất cử nhất động đều có thần minh hộ trì chứng giám.
Về sứ mạng Thiên ân Lão cũng không quên nhắc nhở chư hiền phải thực hiện đúng thánh ý thiên cơ. Là người sứ giả đến trần gian, những sự vui buồn, xuôi thuận hay ngang trái được tiếp nhận hay không tiếp nhận, hiển nhiên là phải có. Điều quan trọng là có trọn hành Thiên mạng hay không ? Có khai sơn phá thạch có hoằng khai Đại Đạo, thì cũng có người đi trước, người nối bước theo sau. Cơ vận chuyển sẽ an bài, dòng sử đạo sẽ ghi lại những thời gian cứu cánh.
Cơ Trời máy Tạo kìa xem đó,
Sứ mạng Thiên ân cần sáng tỏ,
Bát Nhã gay chèo đáy vốn không,
Ma ha chan rưới lòng hằng có.
Trong đục khổ hải phải thông đồng.
Lành dữ đường trần tua mở ngõ,
Thiền định nghiệp duyên dứt sạch trong,
Chơn Nhơn xuất hiện trời Nam tỏ.
Sứ mạng Thiên ân cần sáng tỏ,
Bát Nhã gay chèo đáy vốn không,
Ma ha chan rưới lòng hằng có.
Trong đục khổ hải phải thông đồng.
Lành dữ đường trần tua mở ngõ,
Thiền định nghiệp duyên dứt sạch trong,
Chơn Nhơn xuất hiện trời Nam tỏ.
Lão có bấy nhiêu lời, chư đệ muội ghi nhớ. Có dịp Lão sẽ dạy thêm.
ĐỨC NHƯ Ý ĐẠO THOÀN CHƠN NHƠN
ĐỨC NHƯ Ý ĐẠO THOÀN CHƠN NHƠN
Cẩm Nang tu học
NHỮNG ĐIỀU CẦN GHI NHỚ TRONG VIỆC TU LUYỆN ĐẠO
1- Luôn giữ lời Thệ Nguyện. Hằng ngày công phu và
cúng tứ thời đầy đủ. Chớ dể duôi cho dù tu lâu năm.
2- Cách thờ phượng :
Theo Chơn truyền Đạo Khai .
Giữ y các món với vị trí đã định trên Thiên Bàn.
Không được sửa đổi hay thêm bớt .
Trong đơn phòng tu không treo tranh ảnh của ai khác dù
là hình các vị Phật, Tổ …
3- Giữ trường chay, tuyệt dục. Vợ chồng xem nhau như
bạn.
4- Đi, đứng, nằm, ngồi thường xuyên tưởng nhớ Thầy và
niệm trong tâm : “ Nam Mô Cao Đài Tiên Ông”.
5- Y Pháp mà tu. Khi có gì chưa rõ về bộ Pháp thì hỏi lại
người Chỉ Kiểu hoặc người Chứng minh.
6- Khi tu phải mặc choàng. Nhất là tu trước Thiên Bàn
mà không có choàng là thiếu lễ cùng Thầy.
7- Đối với chị em ( nữ ), vào những ngày kinh kỳ :
+ Vẫn công phu đầy đủ dù bị “kẹt”, nhưng không ở
trước Thiên Bàn mà tìm một chỗ riêng, kín ngồi tu. Khi tu
không mặc choàng, chỉ mặc áo trắng tay dài, có tấm vải che
phía trước thân mình cho trược khỏi xông lên mũi. Cẩn thận
không để ai thấy bộ pháp của mình mà có lỗi với Thầy. Chỉ
cần đốt 1 cây nhang hay để đèn ngang tầm mắt rồi tu.
+ Tạm ngưng việc cúng tứ thời trong những ngày này,
chờ khi nào thật sạch, tắm rửa tử tế rồi mới được vào đơn
phòng dọn Thiên Bàn và cúng trở lại.
8- Ban đêm không được treo choàng ra ngoài trời.
9- Những điều cấm kỵ quan trọng:
+ Không tự ý thêm, bớt, sửa đổi Pháp Đạo.
+ Không được tiết lộ Pháp Đạo cho bất kỳ ai dù họ có cầu nài, kể cả người thân thiết nhất.
+ Không hỏi hay trao đổi Pháp với những Đạo hữu khác ở trong Đàn mình hoặc Đàn khác.
+ Khi tu không để cho người chưa tu thấy bộ pháp
mình đang tu. Nếu không giữ kín, để lộ Pháp là có tội lớn với
Thầy.
10- Trước khi ngồi tu nên để tâm thanh tịnh và niệm
danh Thầy từ 1-5 phút cho định thần. Sau khi tu xong ngồi
tịnh khoảng 15 phút thì Đạo mau phát.
Nếu muốn tu thêm thời thì hai thời tu phải cách nhau ít
nhất khoảng 15 phút.
11- Không đọc Kinh cúng lớn tiếng để tránh hao hơi.
Trừ khi về Đàn cúng tập thể mới đọc lớn tiếng cho ăn rập
với nhau.
12- Nên sắm một xâu chuỗi 108 hột.
+ Sau buổi ăn sáng và chiều nên quỳ trước Thiên
Bàn niệm một xâu chuỗi, xong lạy 1 lạy, gật 12 cái, xá 12 xá
để tạ ơn Thầy cho mình có lộc hưởng đặng tu.
+ Trước khi đi ngủ niệm 5 xâu chuỗi. Nhiều hơn càng tốt.
13- Nếu đủ điều kiện thì nên đi dự Đàn thường lệ hoặc
vào những ngày Đại Lễ để nghe những lời giáo huấn của
Thầy và được hưởng hồng ân Thầy ban cho hầu vững đức tin,
dễ tu hành và vượt qua các cơn khảo đảo. Nếu yếu đức tin thì
bị ma chận đường khó về Tiên cảnh.
14- Vào những ngày Lễ, Sóc, Vọng…nếu không đi dự
Đàn thì ở nhà cúng Thầy và dâng đủ Tam Bửu ( giờ Tý ).
15- Khi về hầu Đàn phải có đầy đủ khăn áo cho chỉnh tề (
quần áo trắng mặc bên trong, đến áo dài và ngoài cùng là áo
tràng trắng) . Đội khăn đóng đen.
16- Khi về Đàn giữ tâm thanh tịnh, không bàn đến việc
đời. Không nói chuyện riêng trong khi chuẩn bị hầu cúng.
17- Nếu có chép Thánh Giáo nên chép vào tập chớ đừng
chép vào giấy rời rồi bỏ thất lạc mà mang tội.
18- Gần tới giờ tu chẳng nên ăn uống nhiều ( trong vòng1
giờ trước tu ) vì no bụng thì khó ngồi tu và Đạo Pháp khó
thông lưu.
19- Trước khi tu trong vòng 20 phút không nên đi tiểu.
Sau mỗi khi đi tiểu nên uống nước vào liền.
Nếu cần tiểu thì 15-20 phút sau mới nên tu.
Thầy nói tu như nấu cơm : “ Nhiều nước cơm sình, thiếu
nước cơm sống, lửa nhiều cơm khét …”
20- Không nên đi chân không, vì đất thuộc âm, sẽ rút mất
điển dương của mình. Trong nhà lúc nào cũng nên mang dép (
cao su ).
21- Không dựa lưng vào tường.
Tránh tiếp xúc với các vật bằng sắt, lông, da thú ( vì bị
nó hút mất điển dương của mình ).
22- Đừng cho hao hơi, tổn khí.
Không nói chuyện nhiều, cười nói lớn tiếng.
Không dùng miệng thổi vào vật gì.
Không khạc nhổ nước bọt, chỉ nuốt nước miếng vào.
23- Giữ tánh trung dung :
Pháp tu của Thầy thì ăn ít, nói ít, làm việc lao lực ít.
Việc chi cũng có chừng mực, không thái quá hay bất cập.
24- Phải bảo tồn bộ răng :
Nếu bị hư mất đôi ba cái răng thì nên trám hay trồng răng
lại để khi công phu ngậm miệng cho kín, không bị thoát khí
ra ngoài.
Khi chân răng bị nhuốm gốc (gần lung lơ) nên ngậm
nước muối ấm thiệt mặn nhiều lần cho chắc răng.
25- Ngủ ngồi. Dùng ghế cây. Không dùng ghế sắt.
Trường hợp bất đắc dĩ hoặc mệt quá thì ngủ nằm nghiêng
bên phải ( để không bị ép tim).
26- Không nên ngủ ngày nhiều.
Thức thuộc dương, ngủ thuộc âm. Người tu đơn luyện
cho thuần dương, chế âm.
Vậy chẳng nên ngủ vào giờ âm ( từ 1giờ trưa đến chiều) .
Sau công phu giờ Mẹo, không nên ngủ trước 7 giờ vì sẽ
bị hườn âm trở lại.
Khi nào mệt mỏi quá thì chỉ ngủ buổi sáng ( từ 8-10 giờ).
26- Tránh chỗ trược.
Điều đại kỵ là : “ Nhứt sanh, nhì tử”.
+ Không nên đi thăm đàn bà mới sanh còn trong tháng vì sẽ lây nhiễm trược nhiều, khó tu .
+Tránh đi đám tang ( nhất là lúc chưa liệm xác) .
Nếu bắt buộc phải đi đám tang vì mối quan hệ quá thân thiết thì đợi sau khi liệm mới đến viếng.
Lúc điếu lễ chỉ xá ba xá thôi chớ không lạy, trừ khi người chết là Ông, Bà, Cha Mẹ của mình mới lạy.
+ Nếu bất đắc dĩ phải đến chỗ “ trược sanh, trược tử “
thì khi về nhà khử trược liền (trước khi cúng và công phu )
bằng cách tắm nước nóng hơn thường ngày, pha muối và
rượu trắng để khử bớt trược nhập thân.
27- Nếu bị trược sanh, trược tử trong vòng hai tuần lễ thì
không được dự Hầu Đàn cơ.
28- Khi bệnh hoạn :
+Thầy dặn hàng môn đệ trong những lúc đau cần tu
nhiều hơn lúc mạnh, tu gia bội, tu gấp đôi thì tự nhiên mau
mạnh.
Đành rằng những lúc bệnh, tinh thần mỏi mệt, tứ chi rũ
riệt, làm biếng tu lắm nhưng nếu biết “ trọng Đạo” thì phải
rán sức mới thấy chỗ hay của Đạo.
+Thầy nói uống thuốc phàm để chủ trị phần Hậu Thiên là xác thể.
Còn công phu luyện Đạo nhiều giờ là để bồi bổ cho
phần Tiên Thiên, tức là phần Hồn. Nhờ Tiên dược có đầy đủ
khí chất thì tự nhiên sẽ đặng phấn khởi tinh thần.
Hai lẽ ấy cũng đều có thể làm cho lành bệnh được,
chẳng khác nào một cành hoa đang héo xào, nếu đem nước
mà rưới khắp cành thì hoa sẽ tươi lại, bằng không thì cặm cái
gốc của cành hoa vào chậu nước, hơi nước sẽ được rút lên
làm cho mát mẻ cả cành thì tự nhiên hoa lá cũng xinh tươi trở
lại như thường.
+ Đã thọ Pháp, người tu không nên dùng thuốc trần
nhất là những thuốc có nguồn gốc động vật ( thú cầm hay
được bào chế từ nội tạng của người như gan, thận, nhau ….).
+ Nếu bị bệnh do thời tiết, khí hậu (cảm cúm) thì có
thể uống ít thuốc để giảm bớt triệu chứng trong vài ngày mà
không gây hại cho cơ thể.
Khi bị ho thì chưng tắc với chanh mà uống .
+ Còn như có gan chịu được thì dầu nặng hay nhẹ cũng cố gắng chịu, không uống thuốc.
Thầy nói : “ Khước bệnh chi Đạo “ . Mình phải có gan
chịu đau là oan nghiệt nó khảo đặng trả nợ tiền khiên. Mình
phải “ thị tử như qui “, coi như chết đi về với Thầy .”
“ Thân này coi như chết chưa chôn “ .
Thầy nói tu theo Đạo Thầy là vào tử ra sanh, tuy đau vậy chớ không sao. Việc sanh tử đều do Thiên số.
29- Tu phải gan dạ, như “ tướng quân hay nữ tướng xuất
trận”, chấp nhận một mất một còn. Phải có gan. Có gan để
chịu đau, chịu khảo chớ không phải có gan để làm việc hung
dữ.
30- Tu hành hay bị khảo, phải chịu khảo để trả nợ.
Phải có chí bền, tánh nhẫn nại, lòng cương quyết thì sẽ
đạt thành ý nguyện.
Thầy nói : “ Vô ma khảo bất thành Đại Đạo “ .
Hễ Đạo cao nhứt xích thì ma cao nhứt trượng. Còn nếu
Đạo cao nhứt trượng thì ma cao đầu trượng.
31- Giờ Tý sau khi tu và cúng xongthì lạy Thầy 24 lạy, tạ
ơn Thầy độ tu và giải nghiệp bớt.
32- Phải phóng sanh và làm phước đức cho nhiều thì chở
cái Đạo mới nổi. ( làm phước kín, âm chất ) .
Rán lập công bồi bồi đức.
Thầy nói : “ Đạo như thuyền , đức như thủy “ . Có thuyền
mà thiếu nước thì thuyền hay mắc cạn, khó ra khơi.
33- Nên ẩn tu nhưng lúc bị khảo đảo cũng cần có bạn
Đạo để giúp đỡ nhau vượt qua.
34- Nên đọc Thánh Giáo nhiều để khi bị khảo thì nhớ và
tự suy nghiệm để giải bớt sự phiền não…
35- Tắm nước nóng có pha muối để khử trược vào buổi
sáng và chiều ( sau thời công phu) rồi mới cúng.
Thường giữ cho đầu được khô, tránh mắc mưa ướt đầu.
Sau khi gội đầu xong lau tóc liền cho mau khô.
36- Chẳng nên mặc đồ dơ sau khi tắm rồi ( sợ nhập trược
trở lại ) .
37- Nên rửa mặt bằng chanh cho da mặt trong và láng.
38- Nên xông mắt :
Sớm mai khi tu xong, nên uống một chén trà nóng đậm
để bổ dương, trợ thần. Vừa uống vừa xông hơi nóng lên mắt
đặng cho mắt tỏ và long lanh có thần ( nhãn lực ).
39- Về việc ăn uống:
+ Cơm rất cần, phải ăn cơm cho hóa Tinh mà luyện
Khí. Nấu cơm chỉ vo sơ, đổ nước vừa để đừng chắt bỏ nước.
+ Không nên ăn đồ chiên xào nhiều dầu vì chất dầu làm Đạo khó chuyển.
Nên dùng dầu mè, dầu dừa, dầu o-liu thì ít nóng và ít trỉnh hơn dầu phộng.
+ Nên ăn thường các thứ rau xanh có khí dương nhiều
như cải bẹ xanh, khổ qua, bí đao, nhất là rau má vừa có chất
mát, vừa tránh bị bón.
+ Nên dùng thường các loại trái cây như :
Cam, quít, bưởi cho bổ khí, hượt trường.
Chuối sứ có nhiều chất bổ cũng như nho.
Các loại rau trái màu đỏ dùng để bổ máu.
+ Nên cử thuốc lá, trầu, rượu, á phiện vì hao tổn khí huyết, có hại cho Kim đơn.
Càphê, bột ngọt cũng nên hạn chế.
Các loại ngũ vị tân : hành, hẹ, tỏi, nén, củ kiệu… là
những chất kích thích, có hại cho ngũ tạng không nên dùng.
Trứng và sữa động vật cũng còn mang tính trược nên cử là tốt.
+ Mới tu, nhất là trong năm đầu không nên dùng nước
đá. Giữ cho bụng luôn ấm để không làm tản khí. Khi súc
miệng sáng và tối cũng nên dùng nước ấm để không làm mất
khí dương trong miệng.
40- Nhớ cúng cơm trước khi ăn để tỏ lòng biết ơn Thầy
cùng các Đấng đã ban cho mình cơm ăn đặng sống mà tu đến
cùng.
Trước khi ăn cơm dùng ba muỗng canh uống cho thông
cổ ( pháp khí trường lưu ).
41- Khi dùng bữa cơm xong rồi thì múc vài muỗng canh
tráng chén cho sạch rồi uống, kế kê đôi đũa nằm ngang trên
miệng chén, chấp hai tay xá một xá, niệm một câu danh Thầy
rồi mới uống nước.
42- Cẩn ngôn, gìn ý. Thận trọng trong giao tiếp với người
khác phái để đề phòng sự khảo hay tiếng thị phi.
43- Đặc biệt ngày đêm mùng 4 rạng mùng 5 tháng ba (
Kỷ niệm ngày Thầy Hiển Đạo tại thế ) và đêm mùng 7 rạng
mùng 8 tháng 10 ( Kỷ niệm ngày Đức Thích Ca Thành Đạo )
nên tu suốt đêm ( mỗi thời cách nhau tối thiểu 15 phút ) vì
trong hai đêm này trong vô vi có Đại Hội Niết Bàn, lằn thoại
khí của các Đấng thiêng liêng ban xuống trần gian rất nhiều.
Tu một giờ bằng 100 giờ thường.
44- Những đêm trăng sáng nên phơi sương, thưởng
nguyệt. Lúc dạo chơi ban đêm nên dùng khăn giữ cho ấm cổ
để không bị nhiễm lạnh.
45- Cúng âm nhơn :
Mỗi tháng vào ngày mùng 2 và 16 âm lịch, buổi chiều (
giờ âm ) nên nấu cháo trắng cúng chẩn ( múc 12 chén ) cùng
gạo, muối, giấy tiền vàng bạc, thanh y, giấy áo, nhang, đèn,
trà, nước… Có thêm cơm, canh, chè, xôi, bánh, trái là tùy
điều kiện, phương tiện của mình( không bắt buộc có đủ thứ ),
bày ra trước cửa nhà, đốt nhang và vái cúng như vầy :
“ Nay là ngày … tháng…năm…, gia chủ ( họ tên ) vâng
lịnh Đức Cao Đài Thượng Đế đã chỉ dạy, xin thành tâm cầu
Thầy ban hồng ân thiên điển, thiên biến vạn hóa các lễ vật
này đủ để phân phát cho tất cả chư vị khuất mặt.
Đồng thời chúng tôi xin mời tất cả các đẳng âm binh,
thập loại cô hồn về nhận diêm lễ, kim ngân cùng lễ vật đa
thiểu, tự tiện xoay dùng đặng hộ trì cho gia đình chúng tôi
được yên ổn, tu hành thành công đắc quả “
Vái cúng rồi để nhang đèn một lúc, sau khi châm nước,
đốt các sắc giấy là lễ tất.
46- Tu mỗi ba năm Dâng lễ tạ ơn Thầy và Chư Phật Tiên
Thánh Thần đã dày công hộ độ mình tu ( Dâng lễ 3, 6, 9, 12
năm ) .
47- Không nên chăn nuôi, mua bán súc vật.
Không lại gần súc vật, kể cả chó, mèo vì nó hút khí
dương của mình .
48- Tu Đạo Thầy khi liễu nên để ở tư thế ngồi, liệm vào
lục giác.
Để cho người ăn chay liệm giúp.
Không cho người ăn mặn lại gần người chết.
Khi chôn để Lục giác day mặt về hướng Bắc.
Trên đây là một số điều thiết yếu cho các Đạo hữu .
Nên cố gắng ghi nhớ và thực hành để việc tu sớm đạt kết
quả tốt.
* * * * *
THÁNH-TỊNH CHIẾU-MINH ĐÀN
(BÌNH DƯƠNG)
Minh Dân sao lục
1- Luôn giữ lời Thệ Nguyện. Hằng ngày công phu và
cúng tứ thời đầy đủ. Chớ dể duôi cho dù tu lâu năm.
2- Cách thờ phượng :
Theo Chơn truyền Đạo Khai .
Giữ y các món với vị trí đã định trên Thiên Bàn.
Không được sửa đổi hay thêm bớt .
Trong đơn phòng tu không treo tranh ảnh của ai khác dù
là hình các vị Phật, Tổ …
3- Giữ trường chay, tuyệt dục. Vợ chồng xem nhau như
bạn.
4- Đi, đứng, nằm, ngồi thường xuyên tưởng nhớ Thầy và
niệm trong tâm : “ Nam Mô Cao Đài Tiên Ông”.
5- Y Pháp mà tu. Khi có gì chưa rõ về bộ Pháp thì hỏi lại
người Chỉ Kiểu hoặc người Chứng minh.
6- Khi tu phải mặc choàng. Nhất là tu trước Thiên Bàn
mà không có choàng là thiếu lễ cùng Thầy.
7- Đối với chị em ( nữ ), vào những ngày kinh kỳ :
+ Vẫn công phu đầy đủ dù bị “kẹt”, nhưng không ở
trước Thiên Bàn mà tìm một chỗ riêng, kín ngồi tu. Khi tu
không mặc choàng, chỉ mặc áo trắng tay dài, có tấm vải che
phía trước thân mình cho trược khỏi xông lên mũi. Cẩn thận
không để ai thấy bộ pháp của mình mà có lỗi với Thầy. Chỉ
cần đốt 1 cây nhang hay để đèn ngang tầm mắt rồi tu.
+ Tạm ngưng việc cúng tứ thời trong những ngày này,
chờ khi nào thật sạch, tắm rửa tử tế rồi mới được vào đơn
phòng dọn Thiên Bàn và cúng trở lại.
8- Ban đêm không được treo choàng ra ngoài trời.
9- Những điều cấm kỵ quan trọng:
+ Không tự ý thêm, bớt, sửa đổi Pháp Đạo.
+ Không được tiết lộ Pháp Đạo cho bất kỳ ai dù họ có cầu nài, kể cả người thân thiết nhất.
+ Không hỏi hay trao đổi Pháp với những Đạo hữu khác ở trong Đàn mình hoặc Đàn khác.
+ Khi tu không để cho người chưa tu thấy bộ pháp
mình đang tu. Nếu không giữ kín, để lộ Pháp là có tội lớn với
Thầy.
10- Trước khi ngồi tu nên để tâm thanh tịnh và niệm
danh Thầy từ 1-5 phút cho định thần. Sau khi tu xong ngồi
tịnh khoảng 15 phút thì Đạo mau phát.
Nếu muốn tu thêm thời thì hai thời tu phải cách nhau ít
nhất khoảng 15 phút.
11- Không đọc Kinh cúng lớn tiếng để tránh hao hơi.
Trừ khi về Đàn cúng tập thể mới đọc lớn tiếng cho ăn rập
với nhau.
12- Nên sắm một xâu chuỗi 108 hột.
+ Sau buổi ăn sáng và chiều nên quỳ trước Thiên
Bàn niệm một xâu chuỗi, xong lạy 1 lạy, gật 12 cái, xá 12 xá
để tạ ơn Thầy cho mình có lộc hưởng đặng tu.
+ Trước khi đi ngủ niệm 5 xâu chuỗi. Nhiều hơn càng tốt.
13- Nếu đủ điều kiện thì nên đi dự Đàn thường lệ hoặc
vào những ngày Đại Lễ để nghe những lời giáo huấn của
Thầy và được hưởng hồng ân Thầy ban cho hầu vững đức tin,
dễ tu hành và vượt qua các cơn khảo đảo. Nếu yếu đức tin thì
bị ma chận đường khó về Tiên cảnh.
14- Vào những ngày Lễ, Sóc, Vọng…nếu không đi dự
Đàn thì ở nhà cúng Thầy và dâng đủ Tam Bửu ( giờ Tý ).
15- Khi về hầu Đàn phải có đầy đủ khăn áo cho chỉnh tề (
quần áo trắng mặc bên trong, đến áo dài và ngoài cùng là áo
tràng trắng) . Đội khăn đóng đen.
16- Khi về Đàn giữ tâm thanh tịnh, không bàn đến việc
đời. Không nói chuyện riêng trong khi chuẩn bị hầu cúng.
17- Nếu có chép Thánh Giáo nên chép vào tập chớ đừng
chép vào giấy rời rồi bỏ thất lạc mà mang tội.
18- Gần tới giờ tu chẳng nên ăn uống nhiều ( trong vòng1
giờ trước tu ) vì no bụng thì khó ngồi tu và Đạo Pháp khó
thông lưu.
19- Trước khi tu trong vòng 20 phút không nên đi tiểu.
Sau mỗi khi đi tiểu nên uống nước vào liền.
Nếu cần tiểu thì 15-20 phút sau mới nên tu.
Thầy nói tu như nấu cơm : “ Nhiều nước cơm sình, thiếu
nước cơm sống, lửa nhiều cơm khét …”
20- Không nên đi chân không, vì đất thuộc âm, sẽ rút mất
điển dương của mình. Trong nhà lúc nào cũng nên mang dép (
cao su ).
21- Không dựa lưng vào tường.
Tránh tiếp xúc với các vật bằng sắt, lông, da thú ( vì bị
nó hút mất điển dương của mình ).
22- Đừng cho hao hơi, tổn khí.
Không nói chuyện nhiều, cười nói lớn tiếng.
Không dùng miệng thổi vào vật gì.
Không khạc nhổ nước bọt, chỉ nuốt nước miếng vào.
23- Giữ tánh trung dung :
Pháp tu của Thầy thì ăn ít, nói ít, làm việc lao lực ít.
Việc chi cũng có chừng mực, không thái quá hay bất cập.
24- Phải bảo tồn bộ răng :
Nếu bị hư mất đôi ba cái răng thì nên trám hay trồng răng
lại để khi công phu ngậm miệng cho kín, không bị thoát khí
ra ngoài.
Khi chân răng bị nhuốm gốc (gần lung lơ) nên ngậm
nước muối ấm thiệt mặn nhiều lần cho chắc răng.
25- Ngủ ngồi. Dùng ghế cây. Không dùng ghế sắt.
Trường hợp bất đắc dĩ hoặc mệt quá thì ngủ nằm nghiêng
bên phải ( để không bị ép tim).
26- Không nên ngủ ngày nhiều.
Thức thuộc dương, ngủ thuộc âm. Người tu đơn luyện
cho thuần dương, chế âm.
Vậy chẳng nên ngủ vào giờ âm ( từ 1giờ trưa đến chiều) .
Sau công phu giờ Mẹo, không nên ngủ trước 7 giờ vì sẽ
bị hườn âm trở lại.
Khi nào mệt mỏi quá thì chỉ ngủ buổi sáng ( từ 8-10 giờ).
26- Tránh chỗ trược.
Điều đại kỵ là : “ Nhứt sanh, nhì tử”.
+ Không nên đi thăm đàn bà mới sanh còn trong tháng vì sẽ lây nhiễm trược nhiều, khó tu .
+Tránh đi đám tang ( nhất là lúc chưa liệm xác) .
Nếu bắt buộc phải đi đám tang vì mối quan hệ quá thân thiết thì đợi sau khi liệm mới đến viếng.
Lúc điếu lễ chỉ xá ba xá thôi chớ không lạy, trừ khi người chết là Ông, Bà, Cha Mẹ của mình mới lạy.
+ Nếu bất đắc dĩ phải đến chỗ “ trược sanh, trược tử “
thì khi về nhà khử trược liền (trước khi cúng và công phu )
bằng cách tắm nước nóng hơn thường ngày, pha muối và
rượu trắng để khử bớt trược nhập thân.
27- Nếu bị trược sanh, trược tử trong vòng hai tuần lễ thì
không được dự Hầu Đàn cơ.
28- Khi bệnh hoạn :
+Thầy dặn hàng môn đệ trong những lúc đau cần tu
nhiều hơn lúc mạnh, tu gia bội, tu gấp đôi thì tự nhiên mau
mạnh.
Đành rằng những lúc bệnh, tinh thần mỏi mệt, tứ chi rũ
riệt, làm biếng tu lắm nhưng nếu biết “ trọng Đạo” thì phải
rán sức mới thấy chỗ hay của Đạo.
+Thầy nói uống thuốc phàm để chủ trị phần Hậu Thiên là xác thể.
Còn công phu luyện Đạo nhiều giờ là để bồi bổ cho
phần Tiên Thiên, tức là phần Hồn. Nhờ Tiên dược có đầy đủ
khí chất thì tự nhiên sẽ đặng phấn khởi tinh thần.
Hai lẽ ấy cũng đều có thể làm cho lành bệnh được,
chẳng khác nào một cành hoa đang héo xào, nếu đem nước
mà rưới khắp cành thì hoa sẽ tươi lại, bằng không thì cặm cái
gốc của cành hoa vào chậu nước, hơi nước sẽ được rút lên
làm cho mát mẻ cả cành thì tự nhiên hoa lá cũng xinh tươi trở
lại như thường.
+ Đã thọ Pháp, người tu không nên dùng thuốc trần
nhất là những thuốc có nguồn gốc động vật ( thú cầm hay
được bào chế từ nội tạng của người như gan, thận, nhau ….).
+ Nếu bị bệnh do thời tiết, khí hậu (cảm cúm) thì có
thể uống ít thuốc để giảm bớt triệu chứng trong vài ngày mà
không gây hại cho cơ thể.
Khi bị ho thì chưng tắc với chanh mà uống .
+ Còn như có gan chịu được thì dầu nặng hay nhẹ cũng cố gắng chịu, không uống thuốc.
Thầy nói : “ Khước bệnh chi Đạo “ . Mình phải có gan
chịu đau là oan nghiệt nó khảo đặng trả nợ tiền khiên. Mình
phải “ thị tử như qui “, coi như chết đi về với Thầy .”
“ Thân này coi như chết chưa chôn “ .
Thầy nói tu theo Đạo Thầy là vào tử ra sanh, tuy đau vậy chớ không sao. Việc sanh tử đều do Thiên số.
29- Tu phải gan dạ, như “ tướng quân hay nữ tướng xuất
trận”, chấp nhận một mất một còn. Phải có gan. Có gan để
chịu đau, chịu khảo chớ không phải có gan để làm việc hung
dữ.
30- Tu hành hay bị khảo, phải chịu khảo để trả nợ.
Phải có chí bền, tánh nhẫn nại, lòng cương quyết thì sẽ
đạt thành ý nguyện.
Thầy nói : “ Vô ma khảo bất thành Đại Đạo “ .
Hễ Đạo cao nhứt xích thì ma cao nhứt trượng. Còn nếu
Đạo cao nhứt trượng thì ma cao đầu trượng.
31- Giờ Tý sau khi tu và cúng xongthì lạy Thầy 24 lạy, tạ
ơn Thầy độ tu và giải nghiệp bớt.
32- Phải phóng sanh và làm phước đức cho nhiều thì chở
cái Đạo mới nổi. ( làm phước kín, âm chất ) .
Rán lập công bồi bồi đức.
Thầy nói : “ Đạo như thuyền , đức như thủy “ . Có thuyền
mà thiếu nước thì thuyền hay mắc cạn, khó ra khơi.
33- Nên ẩn tu nhưng lúc bị khảo đảo cũng cần có bạn
Đạo để giúp đỡ nhau vượt qua.
34- Nên đọc Thánh Giáo nhiều để khi bị khảo thì nhớ và
tự suy nghiệm để giải bớt sự phiền não…
35- Tắm nước nóng có pha muối để khử trược vào buổi
sáng và chiều ( sau thời công phu) rồi mới cúng.
Thường giữ cho đầu được khô, tránh mắc mưa ướt đầu.
Sau khi gội đầu xong lau tóc liền cho mau khô.
36- Chẳng nên mặc đồ dơ sau khi tắm rồi ( sợ nhập trược
trở lại ) .
37- Nên rửa mặt bằng chanh cho da mặt trong và láng.
38- Nên xông mắt :
Sớm mai khi tu xong, nên uống một chén trà nóng đậm
để bổ dương, trợ thần. Vừa uống vừa xông hơi nóng lên mắt
đặng cho mắt tỏ và long lanh có thần ( nhãn lực ).
39- Về việc ăn uống:
+ Cơm rất cần, phải ăn cơm cho hóa Tinh mà luyện
Khí. Nấu cơm chỉ vo sơ, đổ nước vừa để đừng chắt bỏ nước.
+ Không nên ăn đồ chiên xào nhiều dầu vì chất dầu làm Đạo khó chuyển.
Nên dùng dầu mè, dầu dừa, dầu o-liu thì ít nóng và ít trỉnh hơn dầu phộng.
+ Nên ăn thường các thứ rau xanh có khí dương nhiều
như cải bẹ xanh, khổ qua, bí đao, nhất là rau má vừa có chất
mát, vừa tránh bị bón.
+ Nên dùng thường các loại trái cây như :
Cam, quít, bưởi cho bổ khí, hượt trường.
Chuối sứ có nhiều chất bổ cũng như nho.
Các loại rau trái màu đỏ dùng để bổ máu.
+ Nên cử thuốc lá, trầu, rượu, á phiện vì hao tổn khí huyết, có hại cho Kim đơn.
Càphê, bột ngọt cũng nên hạn chế.
Các loại ngũ vị tân : hành, hẹ, tỏi, nén, củ kiệu… là
những chất kích thích, có hại cho ngũ tạng không nên dùng.
Trứng và sữa động vật cũng còn mang tính trược nên cử là tốt.
+ Mới tu, nhất là trong năm đầu không nên dùng nước
đá. Giữ cho bụng luôn ấm để không làm tản khí. Khi súc
miệng sáng và tối cũng nên dùng nước ấm để không làm mất
khí dương trong miệng.
40- Nhớ cúng cơm trước khi ăn để tỏ lòng biết ơn Thầy
cùng các Đấng đã ban cho mình cơm ăn đặng sống mà tu đến
cùng.
Trước khi ăn cơm dùng ba muỗng canh uống cho thông
cổ ( pháp khí trường lưu ).
41- Khi dùng bữa cơm xong rồi thì múc vài muỗng canh
tráng chén cho sạch rồi uống, kế kê đôi đũa nằm ngang trên
miệng chén, chấp hai tay xá một xá, niệm một câu danh Thầy
rồi mới uống nước.
42- Cẩn ngôn, gìn ý. Thận trọng trong giao tiếp với người
khác phái để đề phòng sự khảo hay tiếng thị phi.
43- Đặc biệt ngày đêm mùng 4 rạng mùng 5 tháng ba (
Kỷ niệm ngày Thầy Hiển Đạo tại thế ) và đêm mùng 7 rạng
mùng 8 tháng 10 ( Kỷ niệm ngày Đức Thích Ca Thành Đạo )
nên tu suốt đêm ( mỗi thời cách nhau tối thiểu 15 phút ) vì
trong hai đêm này trong vô vi có Đại Hội Niết Bàn, lằn thoại
khí của các Đấng thiêng liêng ban xuống trần gian rất nhiều.
Tu một giờ bằng 100 giờ thường.
44- Những đêm trăng sáng nên phơi sương, thưởng
nguyệt. Lúc dạo chơi ban đêm nên dùng khăn giữ cho ấm cổ
để không bị nhiễm lạnh.
45- Cúng âm nhơn :
Mỗi tháng vào ngày mùng 2 và 16 âm lịch, buổi chiều (
giờ âm ) nên nấu cháo trắng cúng chẩn ( múc 12 chén ) cùng
gạo, muối, giấy tiền vàng bạc, thanh y, giấy áo, nhang, đèn,
trà, nước… Có thêm cơm, canh, chè, xôi, bánh, trái là tùy
điều kiện, phương tiện của mình( không bắt buộc có đủ thứ ),
bày ra trước cửa nhà, đốt nhang và vái cúng như vầy :
“ Nay là ngày … tháng…năm…, gia chủ ( họ tên ) vâng
lịnh Đức Cao Đài Thượng Đế đã chỉ dạy, xin thành tâm cầu
Thầy ban hồng ân thiên điển, thiên biến vạn hóa các lễ vật
này đủ để phân phát cho tất cả chư vị khuất mặt.
Đồng thời chúng tôi xin mời tất cả các đẳng âm binh,
thập loại cô hồn về nhận diêm lễ, kim ngân cùng lễ vật đa
thiểu, tự tiện xoay dùng đặng hộ trì cho gia đình chúng tôi
được yên ổn, tu hành thành công đắc quả “
Vái cúng rồi để nhang đèn một lúc, sau khi châm nước,
đốt các sắc giấy là lễ tất.
46- Tu mỗi ba năm Dâng lễ tạ ơn Thầy và Chư Phật Tiên
Thánh Thần đã dày công hộ độ mình tu ( Dâng lễ 3, 6, 9, 12
năm ) .
47- Không nên chăn nuôi, mua bán súc vật.
Không lại gần súc vật, kể cả chó, mèo vì nó hút khí
dương của mình .
48- Tu Đạo Thầy khi liễu nên để ở tư thế ngồi, liệm vào
lục giác.
Để cho người ăn chay liệm giúp.
Không cho người ăn mặn lại gần người chết.
Khi chôn để Lục giác day mặt về hướng Bắc.
Trên đây là một số điều thiết yếu cho các Đạo hữu .
Nên cố gắng ghi nhớ và thực hành để việc tu sớm đạt kết
quả tốt.
* * * * *
THÁNH-TỊNH CHIẾU-MINH ĐÀN
(BÌNH DƯƠNG)
Minh Dân sao lục
Ý nghĩa đạo Trời ngày mùng 9 tháng giêng - TTV Thanh Căn
Ý NGHĨA ĐẠO TRỜI NGÀY MÙNG 9 THÁNG GIÊNG
Qua được lúc cỏ cháy đồng khô và những hồi hoạn nạn rồi, cuộc sống nhà nông trở lại bình thường với niềm vui lao động, tưng bừng cả “trên đồng cạn dưới đòng sâu”:
Ơn Trời mưa nắng phải thì
Nơi thì cày cạn, nơi thì bừa sâu.
Mỗi năm, cứ đến ngày Mùng 9 tháng Giêng, toàn đạo Cao Đài đều thiết lễ Vía Thầy, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, là ngày biểu trưng cho ý nghĩa Tạo Đoan hoàn thành vũ trụ.
Đặc biệt đối với người đạo Cao Đài Tiên Thiên, bắt đầu từ Mùng 9 tháng Giêng năm Canh Dần 2010, được chính thức công nhận là ngày Khai Đạo Cao Đài Tiên Thiên do Thông Báo số 39/TB/BTT đề ngày 13/11/Kỷ Sửu (25.12.2009) của Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên. Theo đó thì ngày Đức Chí Tôn dạy khai sáng Tiên Thiên Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là ngày mùng 9 tháng Giêng năm Giáp Tý 1924 tại Thiên Thai Tịnh mà sau nầy là Tòa Thánh Vô Vi Thiên Thai (Cai Lậy-Tiền Giang).
Như thế, tầm quan trọng của ngày Đại lễ được nhân đôi và càng khiến cho chúng ta tìm hiểu sâu hơn về ý nghĩa của ngày trọng đại đó.
Khi đề cập tới vũ trụ và nhân sinh, người đạo Cao Đài thường lưu truyền câu Thiên khai ư Tý, Địa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần : Trời mở mang ở Hội Tý, Đất mở rộng thêm ở Hội Sửu, Người sanh ra ở Hội Dần [1]. Đó là nói theo chu kỳ tạo đoan của vũ trụ. Còn nói theo ba ngôi (tam tài) thì ngôi Người tuy thuộc hàng thứ ba nhưng lại đứng ở vị trí chính giữa của ngôi Trời và ngôi Đất.
Không biết từ bao giờ, hình vẽ Tam Tài đã đặt ngôi Người đứng chính giữa, đầu đội trời chân đạp đất, khoảng giữa có Trời che đất chở Ta thong thả [2] đó chính
là Cao Đài ứng hóa theo lòng chúng sanh [3] vậy.
là Cao Đài ứng hóa theo lòng chúng sanh [3] vậy.
Trên Cao là Trời Cha, biểu tượng bởi số 9 lão dương; dưới Đài là Đất Mẹ, biểu tượng bởi số 6 lão Âm. Đất Trời được ứng hóa đều do lòng chúng sanh, mà lòng chúng sanh có ai khác hơn ngoài con Người hay người Con biểu tượng bằng tháng Giêng thuộc Dần?
Cũng từ sự ứng hóa đó mà lòng chúng sanh tức con người nói chung, dân tộc Việt nói riêng đều nảy sinh tín ngưỡng thờ Trời hay Hoàng Thiên Hậu Thổ được thể hiện qua Đàn tế Nam Giao của các triều đại phong kiến Việt Nam và Bàn Ông Thiên trong dân gian, hoặc Đài Ngưỡng Thiên Cầu Nguyện Hòa Bình của Cao Đài Tiên Thiên hồi hậu bán thế kỷ 21 (1970).
Đó là nguyên do của ngày lễ Vía Đức Chí Tôn trong Đạo Cao Đài, cũng là nguyên do của Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên chọn ngày Mùng 9 tháng Giêng là ngày Khai sáng nền Tiên Thiên Đại Đạo trong Tam Kỳ Phổ Độ theo Thánh ý Đức Chí Tôn dạy tại Thiên Thai Tịnh vào Tý thời ngày mùng 9/Giêng/Giáp Tý (1924) trong Đại Hội Thiên Hoàng:
Bạch NGỌC gi áng lâm buổi mạt đời
HOÀNG đồ bố hóa khắp nơi nơi
THƯỢNG căn Đại Đạo Tiên Thiên xuất
ĐẾ nghiệp Nam bang sửa thế thời.
KIM viết ân hồng qui chánh giáo
CAO ĐÀI võ lộ hiệp cơ trời
NAM PHƯƠNG GIÁO ĐẠO con Hồng Lạc
Phục thủy linh căn đáo Thượng đời [4]
HOÀNG đồ bố hóa khắp nơi nơi
THƯỢNG căn Đại Đạo Tiên Thiên xuất
ĐẾ nghiệp Nam bang sửa thế thời.
KIM viết ân hồng qui chánh giáo
CAO ĐÀI võ lộ hiệp cơ trời
NAM PHƯƠNG GIÁO ĐẠO con Hồng Lạc
Phục thủy linh căn đáo Thượng đời [4]
I. ÔNG TRỜI QUA TỤC NGỮ CA DAO:
Trước ngày Đạo Cao Đài ra đời, trong đời sống tinh thần của dân gian Việt Nam tự ngàn xưa đã có tư tưởng tin thờ Trời được ghi lại bằng ca dao, tục ngữ, thể hiện qua các mặt sinh hoạt khi mà con người đứng trước sự hùng vĩ của thiên nhiên, trước những thiên tai địa ách và nhơn họa đao binh, họ cảm thấy quá bé nhỏ và yếu đuối nên cần đến uy linh siêu nhiên của Ông Trời, về sau tín ngưỡng tôn giáo gọi là Thượng Đế hay Ngọc Hoàng Thượng Đế. Không nói chi đến thời xa xưa, ngay cả thời nay, dù người có đạo hay không có đạo cũng nhiều phen cầu Trời hay kêu Trời mỗi khi thất bại hay thành công trong cuộc sống. Đó chẳng phải là Đạo Trời luôn bàng bạc, chan hòa khắp không gian bao la và từng thời gian ngắn ngủi theo nhịp thở của vạn vật, của nhơn loại sao?
1. Ông Trời tạo hóa:
Người dân bình dị ít chữ nghĩa, cũng cảm thấy mình linh mẫn hơn các loài vật khác, và dù không lý giải được nguyên nhân hình thành vũ trụ là như thế nào, nhưng cũng mường tượng rằng có một Đấng siêu nhiên là Ông Trời tạo ra bầu trời và sản sinh nguồn sống cho vạn vật, như cô gái nhà quê hỏi một bạn trai nọ:
Thấy anh hay chữ, em hỏi thử đôi lời:
Thưở tạo thiên lập địa, Ông Trời tròn ai xây?
Thưở tạo thiên lập địa, Ông Trời tròn ai xây?
Từ Ông Trời tròn thiên nhiên, Ông Trời Vô Ngã, người ta đoan chắc rằng phải có Ông Trời Hữu Ngã, tức Ông Trời có “nhân cách” để tạo lập, cai quản, điều hành bầu trời thiên nhiên đó một cách trật tự, vì có quá nhiều thứ trên mặt đất mà con người không cách nào làm được, và người ta không tin núi non trùng điệp kia, sông sâu biển rộng bao la kia cũng không phải ngẫu nhiên mà có, phải do bàn tay vô hình nào đó sắp đặt:
Núi kia ai đấp nên cao,
Sông kia biển nọ ai đào mà sâu?
Sông kia biển nọ ai đào mà sâu?
Đến cả những loại cây trái trong rừng, tại sao thế nầy mà không là thế nọ, như gai, ai chuốt cho nó nhọn; trái, ai vo cho nó tròn ?
Gai trên rừng ai bứt mà nhọn,
Trái trên cây ai vo mà tròn?
Trái trên cây ai vo mà tròn?
Hỏi tức là đã có câu trả lời. Chữ “ai” mà dân gian dùng cho những câu trên là ai ? Là Ông Trời vậy! Cho nên, có Ông Trời trước rồi mới có mình sau, mình đây là nhơn loại:
Con chim nó hót trên cành,
Nếu Trời không có, có mình làm sao?
Con chim nó hót trên cao,
Nếu Trời không có, làm sao có mình?
Con chim nó hót trên cành,
Nếu Trời không có, có mình làm sao?
Con chim nó hót trên cao,
Nếu Trời không có, làm sao có mình?
2. Ông Trời sinh dưỡng:
Ông Trời trót đã sanh ra loài người thì Ổng cũng phải ban cho loài người cái gì đó để sống. Đạo Công Giáo truyền sang Việt Nam từ thế kỷ 18, nên dân ta cũng ảnh hưởng lời Đức Chúa Trời chép trong Kinh Thánh Cựu Ước ở chương Sáng Thế Ký: Ta sẽ ban cho mọi thứ cỏ kết hột mọc khắp mặt đất và các loại cây xanh quả ấy sẽ là đồ ăn cho các ngươi [5], như câu tục ngữ:
Trời sanh Trời dưỡng.
Trời sanh voi, Trời sanh cỏ.
Trời sanh voi, Trời sanh cỏ.
Tuy nhiên, khái niệm về “Trời dưỡng” không phải người ta cứ ngồi không mà nhận lấy cái ăn cái mặc như “há miệng chờ sung rụng”, mà phải ra công vun trồng “cây cỏ” do Trời sanh mới có cỏ cho “voi ăn”.
Trời nào có phụ ai đâu,
Hay làm thì giàu có chí thì nên.
Hay làm thì giàu có chí thì nên.
Làm đây là làm ăn lương thiện, cư xử với nhau có nhân có đức, có lòng tốt thì Trời mới nhỏ phước xuống cho, vì Trời đâu bao giờ phụ bạc người có tấm lòng tốt: Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhơn [6].
Ở hiền thì lại gặp lành,
Những người nhân đức Trời danh phước cho.
Những người nhân đức Trời danh phước cho.
Nhưng khi có của ăn của để rồi thì cũng nên tiết kiệm, tiêu xài có ngằn đúng nơi đúng việc, không nên tiêu xài phung phí vào những cuộc vui chơi vô bổ, hoặc sắm sanh dư thừa ăn nửa bỏ nửa, bởi phí phạm của Trời thì những đời sau chẳng còn cái để mà ăn:
Phí của Trời, mười đời chẳng có.
Làm người nên biết tiện tằn
Đồ ăn thức mặc có ngằn thì thôi.
Những người đói rách rạc rời
Bởi phụ của Trời, làm chẳng có ăn.
Làm người nên biết tiện tằn
Đồ ăn thức mặc có ngằn thì thôi.
Những người đói rách rạc rời
Bởi phụ của Trời, làm chẳng có ăn.
Tiện tặn không có nghĩa là hà tiện bỏn sẻn, cái gì cũng bo bo gom về mình, “bòn tro đãi trấu” từ công sức của người khác. Người tiện tặn cũng là người rộng rãi tốt bụng, hay giúp đỡ người thiếu thốn mà không tiếc, vì “người ta ăn thì còn, mình ăn thì hết”:
Ở xởi lởi Trời cởi ra cho
Ở so đo Trời co ro lại.
Ở so đo Trời co ro lại.
Mặc dù “mưu sự do người, thành do Trời”, nhưng nếu ai cần mẫn siêng năng với thành tâm thiện ý thì Trời cũng chiếu cố ban ơn như lời động viên của một hiền phụ đối với chồng:
Xin chàng kinh sử học hành
Để em cày cấy cửi canh kịp người.
Mai sau xiêm áo thảnh thơi
Ơn Trời lộc nước đời đời hiển vinh.
Để em cày cấy cửi canh kịp người.
Mai sau xiêm áo thảnh thơi
Ơn Trời lộc nước đời đời hiển vinh.
Thái độ phó mặc cho Trời rất phổ biến trong dân gian thời xưa, nhưng trong thâm tâm người trong cuộc cũng có chút gì đó mang nghị lưc phấn đấu vì “tận nhơn lực” mới “tri thiên mạng”, và sự “tận nhơn lực” diễn ra một cách bình tĩnh, không nôn nóng vội vàng:
Làm trai quyết chí tu thân,
Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.
Khi nên Trời giúp công cho,
Làm trai năm liệu bảy lo mới hào.
Trời sinh Trời chẳng phụ nào,
Công danh gặp hội anh hào ra tay.
Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.
Khi nên Trời giúp công cho,
Làm trai năm liệu bảy lo mới hào.
Trời sinh Trời chẳng phụ nào,
Công danh gặp hội anh hào ra tay.
3. Ông Trời công chứng:
Ông Trời cũng được người trần đặt vào ngôi vị là một “nhân chứng thiêng liêng” cho những mối tình nam nữ:
Trời cao đất rộng
Em vọng lời nguyền
Đất trời còn đó
Em giữ tuyền thủy chung.
Trời cao đất rộng
Em vọng lời nguyền
Đất trời còn đó
Em giữ tuyền thủy chung.
Bên cạnh sự yên ấm hạnh phúc, cuộc sống con người còn có những biến động bất tường, khiến người ta buộc phải than trách Ông Trời hoặc kêu trời bằng giọng thống thiết bởi cảnh sanh ly như:
Trời ơi sinh giặc làm chi
Cho chồng tôi phải ra đi chiến trường.
Cho chồng tôi phải ra đi chiến trường.
và cảnh tử biệt như:
Lá vàng đeo đẳng trên cây
Lá xanh rụng xuống, Trời hay chăng Trời?
Lá vàng đeo đẳng trên cây
Lá xanh rụng xuống, Trời hay chăng Trời?
hoặc khốn khổ vì sưu cao thuế nặng như:
Đời ông cho tới đời cha,
Đời nào khổ cực như ta đời nầy.
Ngoài đồng cắm cọc giăng giây,
Vườn nhà đóng thuế vợ gầy con khô,
Xâu cao thuế nặng biết chừng mô hỡi Trời !
Đời ông cho tới đời cha,
Đời nào khổ cực như ta đời nầy.
Ngoài đồng cắm cọc giăng giây,
Vườn nhà đóng thuế vợ gầy con khô,
Xâu cao thuế nặng biết chừng mô hỡi Trời !
Tại đôi lúc khổ quá nên người mình than trách Ông Trời một chút thôi chớ trong lòng vẫn in khắc Ông Trời như vị Thần hộ mạng trong những vụ mùa bị hạn hán:
Lạy Trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm tôi thổi
Lấy chổi quét nhà
Con gà nhặt thóc…
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm tôi thổi
Lấy chổi quét nhà
Con gà nhặt thóc…
hoặc những khi gặp cơn hoạn nạn, phong vũ bất kỳ:
Nghiêng vai ngửa vái Ông Trời
Đương cơn hoạn nạn, độ người trần gian.
Nghiêng vai ngửa vái Ông Trời
Đương cơn hoạn nạn, độ người trần gian.
hoặc vì nỗi hiếu thân cha già mẹ yếu:
Đêm đêm thắp ngọn đèn trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
Đêm đêm thắp ngọn đèn trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
Qua được lúc cỏ cháy đồng khô và những hồi hoạn nạn rồi, cuộc sống nhà nông trở lại bình thường với niềm vui lao động, tưng bừng cả “trên đồng cạn dưới đòng sâu”:
Ơn Trời mưa nắng phải thì
Nơi thì cày cạn, nơi thì bừa sâu.
hay là: Nhờ Trời mưa thuận gió hòa
Nào cày nào cấy trẻ già đua nhau.
Nào cày nào cấy trẻ già đua nhau.
Chưa hết, có lẽ do ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo về thuyết nhân quả nên dân gian còn xem Ông Trời như là một vị Thần linh cầm cân công bình, thưởng thiện phạt ác:
Trời quả báo, ăn cháo gẫy răng
Ăn cơm gẫy đũa, xỉa răng gẫy chà.
Trời quả báo, ăn cháo gẫy răng
Ăn cơm gẫy đũa, xỉa răng gẫy chà.
Do đó, người ta mới khuyên răn nhau ăn ở làm sao cho có nhân có nghĩa và sống đúng theo luân thường đạo lý, đừng cậy mạnh hiếp đáp kẻ thân cô thế yếu, đừng cậy giàu sang chèn ép kẻ nghèo hèn, vì “Trời cao có mắt”, trên đầu mình còn có Ông Trời soi xét, há không lấy làm kinh sợ sao ?
Cứ trong nhơn nghĩa luân thường
Làm người phải giữ kỷ cương mới mầu.
Đừng cậy khỏe, chớ cậy giàu
Trời kia còn ở trên đầu, còn kinh.
Làm người phải giữ kỷ cương mới mầu.
Đừng cậy khỏe, chớ cậy giàu
Trời kia còn ở trên đầu, còn kinh.
Cho nên trong sinh hoạt mua bán làm ăn, người ta coi trọng sự thành thật với nhau, không dám để mất chữ tín, bởi đâu có hay ho gì khi mình kiếm lợi bằng sự lừa đảo gian dối ngươi khác. Có tiền thì cả gia đình mình, bạn thân mình ăn xài hỉ hạ, nhưng khi mang tội thì chỉ một mình lãnh đủ thôi:
Tin nhau buôn bán cùng nhau,
Thiệt hơn hơn thiệt, trước sau như lời.
Hay gì lừa đảo kiếm lời,
Một nhà ăn uống, tội Trời ai mang.
Thiệt hơn hơn thiệt, trước sau như lời.
Hay gì lừa đảo kiếm lời,
Một nhà ăn uống, tội Trời ai mang.
Đó là chưa kể tiền của tạo ra bằng việc làm phi nghĩa thì cũng có ngày Ông Trời sẽ lấy lại, không cho nữa:
Của Trời, Trời lại lấy đi,
Giương hai mắt ếch làm chi được Trời.
Của Trời, Trời lại lấy đi,
Giương hai mắt ếch làm chi được Trời.
Tuy nhiên trong xã hội cũng không hiếm người vì khốn khổ quá nên đâm liều, “bần cùng sanh đạo tặc”, biết là việc làm quấy có tội nhưng cái bụng đói buộc phải làm, và khi làm lại nghĩ là Ông Trời cũng thông cảm mà xí xóa cho không phải tội, lời ẩn dụ dí dỏm bằng hình ảnh người đi trong mưa mà không có nón:
Trời mưa thì mặc trời mưa
Tôi không có nón trời chừa tôi ra.
Trời mưa thì mặc trời mưa
Tôi không có nón trời chừa tôi ra.
Cuối cùng, người ta có lúc cũng suy nghĩ lại: mỗi việc ở trần gian nầy cứ kêu Trời, than Trời, trách Trời hoài thì không nên, vì Trời là Cha thiêng liêng ở cõi Thiên đàng vĩnh cửu, trần gian nầy chỗ tạm, đâu phải là ngôi nhà thật thọ của mình để ở mãi đâu mà phải lao tâm khổ tứ tranh danh đoạt lợi, làm sao có ngày về gặp Cha ở trên trời cho được:
Xưa kia chỉ biết kêu Trời
Mà nay đã biết gọi Trời là Cha.
Trần gian chẳng phải là nhà
Đi về vĩnh cửu gặp Cha trên trời.
Mà nay đã biết gọi Trời là Cha.
Trần gian chẳng phải là nhà
Đi về vĩnh cửu gặp Cha trên trời.
Thế nên, dù ai không tin có Trời, không tin có Thiên đàng Địa ngục, có luân hồi quả báo, thì bổn phận ta vẫn ôm giữ Đạo Trời không phút nào lơi lãng:
Dù ai nói ngược nói xuôi,
Ta đây vẫn giữ Đạo Trời khăng khăng.
Ta đây vẫn giữ Đạo Trời khăng khăng.
II. ÔNG TRỜI TRONG ĐẠO TRỜI:
Đạo Trời tức Thiên Đạo. Ở đây, khái niệm về Thiên Đạo, chúng ta chỉ có thể nhận qua ba góc độ:
1. Về góc độ Đại Đạo:
Thiên Đạo là chân lý, là năng lực hóa dục vũ trụ, vạn vật. Khi chưa có trời đất đã có Đạo, nó vốn tịch nhiên vô vật, vô danh, vô thể, vô hình, vô tượng, vô thỉ, vô chung, vô nội, vô ngoại…nhưng không có chỗ nào mà Đạo không bao quát. Ở xa thì tồn tại trên cõi Tiên Thiên, ở gần thì tồn tại dưới điểm Nhất Tâm.Theo ngài Trang Tử, Đạo vô vi không có hình trạng, có truyền nó được mà không thấy nó được, tự bổn tự căn, chưa có trời đất đã có nó tồn tại từ xưa [7].
Vũ trụ vạn loại, vạn vật,vạn sự đều nương vào Đạo mà phát sinh, nương vào Đạo mà bảo tồn. Nghĩa lý của Đạo vô cùng uyên thâm và huyền diệu: là chân lý của Vô cực, là sự áo diệu của Tiên Thiên, chí thần chí minh. Cái lý ấy quán triệt cả trời đất muôn vật, cho nên hợp với lý ấy là thuận hợp với Đạo, trái với lý ấy là bội nghịch với Đạo.
Vũ trụ vạn loại, vạn vật,vạn sự đều nương vào Đạo mà phát sinh, nương vào Đạo mà bảo tồn. Nghĩa lý của Đạo vô cùng uyên thâm và huyền diệu: là chân lý của Vô cực, là sự áo diệu của Tiên Thiên, chí thần chí minh. Cái lý ấy quán triệt cả trời đất muôn vật, cho nên hợp với lý ấy là thuận hợp với Đạo, trái với lý ấy là bội nghịch với Đạo.
Cho nên, với góc độ Đại Đạo, tại trời thì gọi là Thiên lý; tại đất thì gọi là Địa lý; tại vật thì gọi là Vật lý và tại người gọi là Tánh lý.
2. Về góc độ tôn giáo:
Tôn giáo là một hiện tượng văn hóa về tâm linh và thực hành đạo đức; thế giới quan và tổ chức xã hội có liên quan đến trật tự sinh tồn cho nhơn loại. Tôn giáo có khả năng thiết định sự kiểm soát trong vũ trụ và duy trì trật tự xã hội và đạo đức của các dân tộc.
Bất kể người đời đánh giá thế nào về tín ngưỡng tôn giáo, cuối cùng người ta cũng thực sự xác nhận nó đóng góp ba chức năng quan trọng trong cuộc sống:
1) Chức năng sinh tồn
2) Chức năng hội nhập
3) Chức năng nhận thức về đạo đức.
Bất kể người đời đánh giá thế nào về tín ngưỡng tôn giáo, cuối cùng người ta cũng thực sự xác nhận nó đóng góp ba chức năng quan trọng trong cuộc sống:
1) Chức năng sinh tồn
2) Chức năng hội nhập
3) Chức năng nhận thức về đạo đức.
Nhìn qua các nền tôn giáo, tất nhiên có những điểm dị biệt về hình thức bên ngoài, nhưng bản chất đều lấy việc giáo dân vi thiện, an ủi tâm linh, xúc tiến sự hài hòa xã hội làm công năng và mục đích. Người giáo đồ luôn tâm niệm: học cho sáng lý Đạo để thực hành theo tôn chỉ, qui giới. Kính Thiên Địa, lễ Thần minh, hiếu phụ mẫu, trọng tiền nhân, tín bằng hữu, hòa hương lân, cẩn ngôn thận hành, cải ác hướng thiện; ngoài việc giữ gìn cang thường luân lý, còn phải nghiên cứu Thánh học Tiên phương, tu luyện nội hàm, làm sáng lại bổn tánh, chánh kỷ hóa nhơn, vãn hồi tệ nạn, tịnh hóa nhơn tâm và nguyện cầu thế giới hòa bình.
Lại với cái nhìn từ góc độ đoàn thể tôn giáo, Tiên Thiên Đạo là tôn giáo siêu việt, vượt cả thời gian và không gian.
3. Về góc độ Dịch số:
1) Ngày mùng 9: Số 9 theo số thứ tự của quẻ Dịch, thuộc quẻ Phong Thiên Tiểu Súc 風天小畜 ,có ý nghĩa lấy nhỏ nuôi lớn; mượn sự nuôi dưỡng Dương mà thối Âm. Giữ tâm có như không, thực như hư; trau dồi tâm đức càng ngày càng cao để từ từ tiến vào cảnh giới Thánh Hiền.
Số 9 còn là số của sự thương yêu rộng lớn (đại ái số). Chữ số 9 nầy rất đặc biệt, nó cộng hay nhân với bất kỳ số nào cũng trở về số 9. Ví dụ:
1+2+3+4+5+6+7+8=36 (3+6=9).
Và: 2x9=18 (1+8=9), 9x5=45 (4+5=9).
Và: 2x9=18 (1+8=9), 9x5=45 (4+5=9).
Cho nên việc bắt đầu kết hợp từ số 1, số 9 sẽ biến hóa ra chuỗi số vô tận để cuối cùng lại trở về 9 theo định luật nhứt bổn tán vạn thù, vạn thù qui nhứt bổn [8], cũng như trong vũ trụ có 3 màu chính là xanh, đỏ, vàng nhưng có thể bao gồm vô số màu sắc khác.
Thời nhà Minh, Vương Quì 王逵 có ghi trong Lãi Hải Tập 蠡海集 rằng: Ý nghĩa về Ngọc Đế giáng sinh ngày mùng 9 tháng Giêng là: Số dương bắt đầu tại số 1, và tận cùng ở số 9, có nguồn gốc khởi nguyên đến điểm cuối cùng [9].
Mùng 9 theo Dịch lý còn là số thuộc Kiền, Kiền vi Thiên 乾爲天 tức Đạo Trời; tháng Giêng là tháng Dần, Nhơn sinh ư Dần人生於寅 tức Đạo Người. Trời Người tác hợp có nghĩa là con người phải sống theo Đạo Trời. Trời có bốn Đức: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.
Mùng 9 theo Dịch lý còn là số thuộc Kiền, Kiền vi Thiên 乾爲天 tức Đạo Trời; tháng Giêng là tháng Dần, Nhơn sinh ư Dần人生於寅 tức Đạo Người. Trời Người tác hợp có nghĩa là con người phải sống theo Đạo Trời. Trời có bốn Đức: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.
2) Tháng Giêng mùa Xuân, ứng với số 1 là số bổn nguyên, sáng thế, thuộc dương Mộc; là hạt giống của sinh mệnh; nó bắt đầu như một dấu hiệu sáng tạo, khơi mở mầm móng cho vạn vật; ứng với đức Nhân của Ngũ Đức.
Theo số thứ tự của quẻ Dịch, số 1 thuộc quẻ Bát Thuần Kiền 八純乾 ,hợp với đức Nguyên 元của Kiền Đạo: thuần dương cương kiện để có thể hình thành được nền tảng vững mạnh cho sự sinh sôi trưởng dưỡng muôn vật mà trước đó có hiện tượng Tam Dương khai Thái: ba dương từ dưới vươn lên mở ra một cảnh giới Trời Đất giao hòa (Địa Thiên Thái 地天泰 ) , âm tiêu dương trưởng, biểu ý cho vận xấu qua đi vận may trở lại.
Theo số thứ tự của quẻ Dịch, số 1 thuộc quẻ Bát Thuần Kiền 八純乾 ,hợp với đức Nguyên 元của Kiền Đạo: thuần dương cương kiện để có thể hình thành được nền tảng vững mạnh cho sự sinh sôi trưởng dưỡng muôn vật mà trước đó có hiện tượng Tam Dương khai Thái: ba dương từ dưới vươn lên mở ra một cảnh giới Trời Đất giao hòa (Địa Thiên Thái 地天泰 ) , âm tiêu dương trưởng, biểu ý cho vận xấu qua đi vận may trở lại.
Tính cương kiện nầy không chỉ khởi lên đức Nguyên ở mùa xuân rồi dừng lại ở đó, mà nó phải hành kiện xuyên suốt qua ba mùa kế tiếp là Hạ, Thu, Đông và lòn lõi qua ba đức Hanh 亨, Lợi 利, Trinh 貞 nữa. Thời tiết bốn mùa đều mang các yếu tố thịnh suy bỉ thới đều cần đến tính năng cương kiện để duy trì bản sắc của mỗi thời. Như mùa Xuân Nguyên sơ dương khí mới sanh, cây cỏ nảy mầm…cũng do tác động của cương kiện; mùa Hạ Hanh thông, dương khí sung mãn lưu hành, trưởng dưỡng vạn vật, cỏ cây phấn phát cũng do sự thúc đẩy của cương kiện; mùa Thu liễm thâu vạn vật, dương khí thích nghi, gặt hái lợi lộc… cũng do sự tá trợ của cương kiện; mùa Đông ẩn tàng, dương khí yên tĩnh, vạn vật trở về cội rễ của mình, giữ được sự chính bền đều nhờ vào cương kiện kềm giữ.
Cơ số 1 còn hàm chứa một lực lượng tích cực mạnh mẽ, đại biểu cho người Cha, cho Đấng Chí Tôn Đại Từ Phụ. Số 1 không chỉ là số đầu tiên, nó còn là số nền tảng của phép tắc sản sinh ra những chữ số tiếp theo sau nó.
Lợi thế tích cực của số 1 là dũng cảm, tính sáng tạo, tiến thủ, lạc quan, tín nhiệm. Số 1 cũng tượng trưng cho Thái cực, là nguồn gốc sinh ra vạn tượng, vạn hữu, vũ trụ, quần sinh. Đức Chí Tôn dạy:
Thầy sanh con mỗi con sẵn lộc
Cây sống nào không gốc đâu con?
Khắp trong vạn vật sống còn
Do Thầy sanh hóa bảo tồn thể thân” [10]
Cây sống nào không gốc đâu con?
Khắp trong vạn vật sống còn
Do Thầy sanh hóa bảo tồn thể thân” [10]
2) Nói về Đạo Người thì như chúng ta đã biết, do Người đứng chung ngôi tam tài cùng Trời Đất, nên ở vũ trụ Trời có chi thì cơ thể Người tương đương có nấy. Để giữ được sự thái hòa trong con người, chúng ta chỉ có cách là sống theo Đạo Trời. Cụ thể qua mấy điểm:
a. Tháng Giêng là tháng để người ta hoạch định các dự án làm ăn cho năm mới, cũng như giờ Dần người ta phải thức dậy toan tính công việc cho một ngày mới, đòi hỏi phải tập trung tinh thần và sức lực vào niên trình mới. Tinh thần và sức lực được hấp thu đầy chất cương kiện từ Kiền Đạo (Đạo Trời). Cương là ý chí cứng cõi, không chịu khuất phục trước ma lực tà thần nào, không chùn bước trước một chướng ngại nào trên đường tu thân hành đạo. Kiện là đức tin vững mạnh, không một tà thuyết nào làm lung lạc được tấm lòng kiên định, làm nghiêng đổ niềm tin của ta hướng về mục tiêu mà mình đã chọn.
b. Tháng Giêng là ứng với Đức Nhân 仁 của Đấng tạo đoan vũ trụ, cũng là đức Nhân đứng đầu trong ngũ đức của Đạo làm người. Nên khi chúng ta dâng lễ Vía Thầy cũng là dịp để suy niệm và thực hành đức Nhân theo tình Tạo hóa yêu sanh muôn vật.
Lòng Trời Đất thương đều muôn vật
Đức háo sanh Tiên, Phật một màu
Thượng cầm hạ thú lao xao
Côn trùng thảo mộc, loài nào chẳng linh.
[Kinh Sám Hối]
Đức Nhân tuy chỉ là một trong năm đức nhưng vì là đức “anh cả” đứng đầu, nên chức năng của nó bao gồm cả bốn đức kế là Lễ 禮, Nghĩa 義, Trí 智và Tín 信 mới có thể phát huy hết sở dụng của nó. Như trên đã nói, dương tính của Càn kiện lưu chuyển cả trong bốn mùa, tuy lúc hiện lúc ẩn nhưng nhờ nó mà Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh mới phát huy hết tác dụng của mình. Cụ thể là:
Đức háo sanh Tiên, Phật một màu
Thượng cầm hạ thú lao xao
Côn trùng thảo mộc, loài nào chẳng linh.
[Kinh Sám Hối]
Đức Nhân tuy chỉ là một trong năm đức nhưng vì là đức “anh cả” đứng đầu, nên chức năng của nó bao gồm cả bốn đức kế là Lễ 禮, Nghĩa 義, Trí 智và Tín 信 mới có thể phát huy hết sở dụng của nó. Như trên đã nói, dương tính của Càn kiện lưu chuyển cả trong bốn mùa, tuy lúc hiện lúc ẩn nhưng nhờ nó mà Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh mới phát huy hết tác dụng của mình. Cụ thể là:
* Khi đã có lòng Nhân tức đã có lòng thương người, thương nước thương dân, thì trong quan hệ xã hội, người ta sẽ không vì lợi ích riêng mình mà sanh lòng tham, cố ý xâm hại quyền lợi và sức khỏe của người khác bằng những mưu toan hay việc làm như ẩu đả gây thương tích cho người khác; tích trữ hay mua bán đồ gian; không buôn lậu trốn thuế; không lấn đất giành nhà giữa bà con chòm xóm. Giả như ai có hành động đó đối với mình thì cũng thể theo lòng Nhân mà bao dung và nhường nhịn, đừng sợ ai nói mình ngu khờ, phải có hùng tâm tráng chí mới giữ được lòng Nhân tức đức Càn Nguyên của Trời và giữ được giới Nhứt bất sát sanh và Nhì bất du thiết, gìn tròn chữ Nghĩa.
* Khi đã có lòng Nhân, thì người ta đâu nỡ “chia quyên rẽ thúy” làm tan vỡ tình cảm trong sáng của người khác; đâu nỡ làm hư hoại hạnh phúc gia đình bởi lòng ham muốn trăng hoa, gây điều khổ lụy cho bao người liên hệ; đâu nỡ ghét bỏ nguyên linh của mình để dục tâm biến thành ong bướm hút nhụy Tam hoa [11]. Không dính vào những ý tưởng và hành vi kể trên sẽ giữ được giới Tam bất đà dâm, gìn tròn chữ Lễ.
* Khi đã có lòng Nhân, thì người ta không nỡ mượn rượu làm nư, say sưa quậy trên phá dưới, gây mất trật tự trị an từ gia đình ra ngoài hàng xóm; không nỡ thiêu đốt tâm can, bôi mờ thần trí, xóa bỏ công phu của mình bằng cao độ hơi men. Đó là giữ được giới Tứ bất tửu nhục, gìn tròn chữ Trí.
* Khi đã có lòng Nhân, người ta cũng không nỡ bội bạc lời hứa làm người khác thất vọng; không nỡ lừa lọc giả dối để người khác cưu mang sầu khổ; không nỡ chán ghét bản thân mình đến nỗi để đức tin mơ hồ, tâm đạo lãng xao khiến đường tu trì trệ. Được như thế coi như ta giữ tròn giới Ngũ bất vọng ngữ và thành tựu chữ Tín.
3) Năm 1924 = (2+4=6)+(1+9=10-9=1) = 7 :
Số 7 theo số thứ tự của quẻ Dịch thuộc quẻ Địa Thủy Sư 地水師 , có ý nghĩa thuận thời tiến Dương; mượn Dương thối Âm; lấy chánh trị tà, dụng chân diệt giả; tùy thời thoát hiểm.
Số 7 thuộc dương Kim, màu tím, biểu tượng cầu vồng. Là chữ số đặc biệt kỳ diệu mà chúng ta có thể tưởng tượng ra vô số điều ảo diệu, thần bí liên quan tới nó. Như:
* Một tuần lễ có 7 ngày: Thứ hai, Thứ ba, Thứ tư, Thứ năm, Thứ sáu, Thứ bảy và Chủ nhật).
* Một tuần lễ có 7 ngày: Thứ hai, Thứ ba, Thứ tư, Thứ năm, Thứ sáu, Thứ bảy và Chủ nhật).
* Bắc Đẩu có 7 vì sao trong chòm sao Đại Hùng: Tham Lang, Cự Môn, Lộc Tồn, Văn Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc và Phá Quân.
* Cầu vồng có 7 màu: đỏ, vàng, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím.
* Âm giai có 7 âm: đồ, rê, mi, fa, sol, la, si.
* Trong cơ thể con người có 7 trung tâm năng lực hay 7 luân xa: Luân xa số 1 ở vùng sinh dục, Luân xa số 2 ở vùng bụng dưới , Luân xa số 3 ở vùng thượng thận , Luân xa số 4 ở vùng ngực, Luân xa số 5 ở vùng cổ, Luân xa số 6 nằm giữa hai chân mày và đáy sống mũi , Luân xa số 7 tập trung tại tuyến yên, nơi sàn não thất thứ ba.
* Trong đầu não con người có 7 loại hình thông minh hay năng khiếu: Năng khiếu về ngôn ngữ, năng khiếu logic - toán học, năng khiếu về không gian, năng khiếu về âm nhạc, năng khiếu về vận động thân thể, năng khiếu về tương tác, năng khiếu về tự nhận thức bản thân hoặc nội tâm.
* Sinh nhật của Chúa Giêsu là vào ngày 25 (2+5=7), vì vậy số 7 ở phương Tây được gọi là Thiên Chúa.
Số 7 còn tượng trưng cho chiều sâu bên trong của con người để tìm thấy ý nghĩa và kết nối tâm linh giữa con người với Thượng Đế, và là số tốt để đào sâu chân tướng của sự vật. Số 7 cũng được nhiều người trên thế giới xem là một con số may mắn (hạnh vận).
Tóm lại, tục ngữ, ca dao đã dệt thành gấm vóc và điểm tô màu sắc văn hóa về tín ngưỡng dân gian, đặt nền móng cho tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam, mà điểm cao nhứt của sự giao thoa văn hóa và tôn giáo là Đạo Cao Đài. Đồng thời, khi tổng hợp hai tiết mục: Ca dao tục ngữ về Ông Trời, Ông Trời trong Đạo Trời bao gồm ba góc độ: về Đại Đạo, về tôn giáo và về Dịch số đủ để chứng minh cho sở dụng của Thiên Đạo như thế nào. Thiên Đạo khi được vận dụng vào đời sống con người thì đó là Thiên mệnh: Mệnh Trời phú cho gọi là Tính, noi theo Tính ấy gọi là Đạo, và tu luyện theo Đạo gọi là Giáo [11], bởi Đạo với Thiên vốn là một thể, là nguồn cội sinh hóa vạn vật, vạn loại, nên hợp xưng là Thiên Đạo, và Thiên Đạo được diễn hóa thành Tiên Thiên Đại Đạo.
III. TIÊN THIÊN ĐẠI ĐẠO:
Đàn cơ Tý thời mùng 9 tháng Giêng năm Giáp Tý (1924) Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng dạy chuẩn bị thành lập Tiên Thiên Đại Đạo, trích đoạn như sau:
Khai trời mở đất lập Thiên Hoàng
Làm chủ mười hai, Hội Tý sang
Đại Đạo hóa hoằng sanh vạn pháp
Phật Tiên Thần Thánh thọ cơ quan.
Tam Kỳ tá thế ban ân xá
Danh Ngã Cao Đài cứu thế gian
Hữu phước Chơn sư truyền chánh giáo
Bền lòng tu niệm hưởng thanh nhàn.
Làm chủ mười hai, Hội Tý sang
Đại Đạo hóa hoằng sanh vạn pháp
Phật Tiên Thần Thánh thọ cơ quan.
Tam Kỳ tá thế ban ân xá
Danh Ngã Cao Đài cứu thế gian
Hữu phước Chơn sư truyền chánh giáo
Bền lòng tu niệm hưởng thanh nhàn.
Ta hỉ hỉ chư chúng sanh! Đã ba Nguơn Ta chiết
Chơn linh xuống thế bằng thai phàm lập giáo tận độ linh căn, bị chúa quỉ ma vương hãm hại xác phàm. Kỳ Ba nầy ta dùng điển quang giáng vào cơ bút, mượn Chơn đồng truyền khẩu dạy đạo.
Tòng! Hãy dạy cho Sung đến rước Nguyễn Hữu Chính tại Phủ Thờ về hợp tác lo khai Đạo. Sau nầy Ta sẽ thâu thêm Thất Thánh, Thất Hiền lo mở cơ Tiên Thiên Đại Đạo đó nghe!
Chơn linh xuống thế bằng thai phàm lập giáo tận độ linh căn, bị chúa quỉ ma vương hãm hại xác phàm. Kỳ Ba nầy ta dùng điển quang giáng vào cơ bút, mượn Chơn đồng truyền khẩu dạy đạo.
Tòng! Hãy dạy cho Sung đến rước Nguyễn Hữu Chính tại Phủ Thờ về hợp tác lo khai Đạo. Sau nầy Ta sẽ thâu thêm Thất Thánh, Thất Hiền lo mở cơ Tiên Thiên Đại Đạo đó nghe!
Đương giờ Tý Thiên sanh khai Hội
Lập Cao Đài mở lối cơ quan
Cho con nước Việt Hồng Bàng
Đem con thoát khỏi tai nàn kỳ ba.
Dựng quốc Đạo bửu tòa thơ thới
Dạy thương yêu lập Hội Nhơn Hoàng
Địa Hoàng đất Thuấn âu ca
Đại đồng nhơn loại, bình hòa ngũ châu.
Hiệp ba mối gồm thâu năm cõi [12]
Luyện huờn hư, chín hội qui gia [13]
Tiên Thiên trổ mặt kỳ ba,
Đứng đầu sử Đạo, sau ra đại đồng (…) [14]
Lập Cao Đài mở lối cơ quan
Cho con nước Việt Hồng Bàng
Đem con thoát khỏi tai nàn kỳ ba.
Dựng quốc Đạo bửu tòa thơ thới
Dạy thương yêu lập Hội Nhơn Hoàng
Địa Hoàng đất Thuấn âu ca
Đại đồng nhơn loại, bình hòa ngũ châu.
Hiệp ba mối gồm thâu năm cõi [12]
Luyện huờn hư, chín hội qui gia [13]
Tiên Thiên trổ mặt kỳ ba,
Đứng đầu sử Đạo, sau ra đại đồng (…) [14]
Qua trích đoạn Thánh giáo trên, chúng ta có lý do để xác định rằng, Thiên Thiên Đại Đạo không phải là một nhánh, một dòng (chi 枝phái 派) từ một cội (bổn 本), một nguồn (nguyên 源) đã có sẵn, nhưng là do chính Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Đức Chí Tôn dạy lập thành trong Tam Kỳ Phổ Độ, mà Tam Kỳ Phổ Độ lại là Đạo Cao Đài với danh xưng đầy đủ là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cũng do chính Đức Chí Tôn giáng điển sáng khai.
Trong đàn cơ tại Đại Hội Địa Hoàng (Thiên Thai Tịnh) ngày 15 tháng 10 năm Ất Sửu (1925), Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế tiếp tục giáng dạy lập Tiên Thiên Đại Đạo và có lời nhắn nhủ như sau:
“Tiên Thiên Đại Đạo là cái Đạo lớn của Đức Kim Mẫu sáng lập kỳ ba tại Nam bang mà lập thành chánh danh Tiên Thiên Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ” [15]
Kinh Hoàng Tiết Lục 皇節錄 nxb Thiện Thư Duyên 善書緣- Đài Loan 台彎, có đoạn:
Huyền Khung Cao Thượng Đế 玄靈高上帝
Lịch kiếp ức vạn thiên 歷劫億萬千
Công đức mãn thiên hạ 功德滿天下
Viên thành đạo kiền thiên 無上證真仙
Giáp Tý niên nguyên đán 甲子年元旦
Giáng điển lập Tiên Thiên 降電立先天
Đại Đạo Tam Kỳ hợp 大道三期合
Thiên vận vĩnh liên miên 天運永連綿.
Huyền Khung Cao Thượng Đế 玄靈高上帝
Lịch kiếp ức vạn thiên 歷劫億萬千
Công đức mãn thiên hạ 功德滿天下
Viên thành đạo kiền thiên 無上證真仙
Giáp Tý niên nguyên đán 甲子年元旦
Giáng điển lập Tiên Thiên 降電立先天
Đại Đạo Tam Kỳ hợp 大道三期合
Thiên vận vĩnh liên miên 天運永連綿.
Sở dĩ Đức Chí Tôn cho biết Tiên Thiên Đại Đạo là của Đức Diêu Trì Kim Mẫu sáng lập là căn cứ sự kiện Đức Kim Mẫu đã giáng điển dạy vị Đạo trưởng chưởng môn Toàn Chân Giáo [16] là Hoàng Đức Huy (1664 - 1731 ) chuyển lập Tiên Thiên Đại Đạo tại Trung Hoa vào thời Thuận Trị nhà Thanh, thế kỷ thứ 17 [17]. Về con người, Tiên Thiên Đại Đạo tại Việt Nam và Tiên Thiên Đại Đạo tại Trung Hoa không liên quan gì với nhau cả, sự trùng hợp ấy đều do huyền linh vận chuyển. Đây thuộc về nguồn gốc Tiên Thiên Đại Đạo, chúng ta sẽ bàn vào dịp khác.
IV. LỜI KẾT
Đạo Trời vốn không ở đâu xa. Nếu nói xa thì xa tít mù trong khoảng vũ trụ bao la; nếu nói gần thì gần ở quanh ta, ở ngay trong lòng ta. Đạo xa người chỉ vì người chẳng màng tới Đạo nên không thấy giá trị mà tìm cầu; thậm chí có thấy giá trị mà chỉ vì mãi quen làm bạn với mười ba con ma dục tình vọng thức nên cam đành xa cách Đạo Trời. Tuy nhiên những ai biết tin tưởng Trời, thờ kính Trời phần nào sẽ biết sống theo Đạo Trời thể hiện qua đạo lý làm người như ca dao bình dân đã bày tỏ. Còn đối với người tu theo Cao Đài thì Ông Trời (Đức Thượng Đế) và cái Đạo của Ngài lại càng thấm đậm rõ nét hơn từ tư tưởng, thái độ và hành vi.
Dẫu sao thì chúng ta vẫn còn là người phàm mắt thịt, cuộc sống vật chất vẫn phải chung đụng với người thế tục, ngoài việc tu hành ra còn phải bươn chải tìm cái ăn, cái mặc, cái ở. Tuy có được những thời cúng tịnh, không sợ chi đến việc xa đạo xa Thầy, chúng ta vẫn tâm niệm rằng luôn có Đấng Cha Trời đang ngự trong tâm, hằng an ủi, hằng hộ trì chúng ta trong những buồn nản, sa sút tinh thần vì những tai bay nạn gởi hay những chướng ngại lý trí từ mọi phương mang đến. Nhưng có lúc tưởng chừng ta không kham nỗi nên cũng buộc phải than thở với Thầy, với Mẹ kèm theo vài giọt nước mắt…mới trút được nỗi khổ đang nằng nặng trong lòng. Thà như thế còn hơn có người khổ quá không muốn tin gì ở Trời Đất nữa, “Trời không giúp thì ta tự lo”, rồi đâm ra làm liều đủ thứ để mong gỡ gạc lại những gì đã mất, cuối cùng chẳng được như ý mà tình trạng lại tệ hại hơn.
Dẫu sao thì chúng ta vẫn còn là người phàm mắt thịt, cuộc sống vật chất vẫn phải chung đụng với người thế tục, ngoài việc tu hành ra còn phải bươn chải tìm cái ăn, cái mặc, cái ở. Tuy có được những thời cúng tịnh, không sợ chi đến việc xa đạo xa Thầy, chúng ta vẫn tâm niệm rằng luôn có Đấng Cha Trời đang ngự trong tâm, hằng an ủi, hằng hộ trì chúng ta trong những buồn nản, sa sút tinh thần vì những tai bay nạn gởi hay những chướng ngại lý trí từ mọi phương mang đến. Nhưng có lúc tưởng chừng ta không kham nỗi nên cũng buộc phải than thở với Thầy, với Mẹ kèm theo vài giọt nước mắt…mới trút được nỗi khổ đang nằng nặng trong lòng. Thà như thế còn hơn có người khổ quá không muốn tin gì ở Trời Đất nữa, “Trời không giúp thì ta tự lo”, rồi đâm ra làm liều đủ thứ để mong gỡ gạc lại những gì đã mất, cuối cùng chẳng được như ý mà tình trạng lại tệ hại hơn.
Cho nên, ngày lễ Vía Thầy cũng là ngày khai sáng Tiên Thiên Đạo tức Tiên Thiên Đại Đạo, nhắc cho chúng ta ghi khắc một điều là không để mất đi Thiên Tâm, còn gọi là Huyền Khiếu, là sức sống lúc nào cũng có, nơi nào cũng có, ẩn trong đó tính cương kiện của Kiền Đạo tức Đạo Trời. Bốn chữ Càn kiện cao minh trong bài kinh Ngọc Hoàng Bửu Cáo mà ta tụng đọc hằng ngày xem như là cẩm nang, là bùa hộ mạng cho người tu đang sống giữa thế gian đầy khổ đau và cám dỗ./.
THANH CĂN
______________________
CHÚ THÍCH:
[1] Thiệu Khang Tiết 邵康節(1011-1077)nhà Dịch học, nhà tư tường, nhà thơ thời Bắc Tống có nói: Trời mở tại Hội Tý thuộc quẻ Địa Lôi Phục. Đất mở ở Hội Sửu thuộc quẻ Địa Trạch Lâm. Người sanh ở Hội Dần thuộc quể Địa Thiên Thái. Chu kỳ 12 cung kết thúc ở quẻ Khôn là một Nguyên. Bàn Cổ sanh ở hội Dần (Thiên khai ư Tý, Phục quái dã. Địa tịch ư Sửu, Lâm quái dã. Nhơn sinh ư Dần, Thái quái dã. Chu thập nhị cung nhi chung ư Khôn, thị vi nhứt Nguyên. Bàn Cổ sinh ư Dần 天開於子,復卦也。地辟於丑,臨卦也。
人生於寅,泰卦也。周十二宮而終於坤,是爲一元, 盤古生於寅.
[1] Thiệu Khang Tiết 邵康節(1011-1077)nhà Dịch học, nhà tư tường, nhà thơ thời Bắc Tống có nói: Trời mở tại Hội Tý thuộc quẻ Địa Lôi Phục. Đất mở ở Hội Sửu thuộc quẻ Địa Trạch Lâm. Người sanh ở Hội Dần thuộc quể Địa Thiên Thái. Chu kỳ 12 cung kết thúc ở quẻ Khôn là một Nguyên. Bàn Cổ sanh ở hội Dần (Thiên khai ư Tý, Phục quái dã. Địa tịch ư Sửu, Lâm quái dã. Nhơn sinh ư Dần, Thái quái dã. Chu thập nhị cung nhi chung ư Khôn, thị vi nhứt Nguyên. Bàn Cổ sinh ư Dần 天開於子,復卦也。地辟於丑,臨卦也。
人生於寅,泰卦也。周十二宮而終於坤,是爲一元, 盤古生於寅.
[2] Nguyên tác bài thơ Vịnh Tam Tài của Chí sĩ Trần Cao Vân (1866-1916):
Thiên Địa sinh ngô hữu ý vô 天地生吾有意無
Vị sinh thiên địa nội hàm ngô 未生天地内含吾
Ngô thiên địa hợp tam tài lập 吾天地合三才立
Thiên địa ngô đồng nhất tự đồ 天地吾同一字圖
Ngô xuất địa thời thiên chuyển động 吾出地時天轉動
Thiên giao ngô tịch địa bao lô 天教吾闢地包瀘
Địa thiên tải phúc ngô sinh lạc 地天載覆吾生樂
Thiên địa hóa công ngô hữu hồ 天地化工吾有乎
Trời Đất sinh Ta có ý không?
Chưa sinh Trời Đất có Ta trong
Ta cùng Trời Đất ba ngôi sánh
Trời Đất in Ta một chữ đồng
Đất nứt Ta ra Trời chuyển động
Ta thay Trời mở Đất mênh mông
Trời che Đất chở Ta thong thả
Trời Đất Ta đây đủ hoá công.
(Chí sĩ Trần Cao Vân nxb Đà Nẵng 1999 tr.75-79)
Thiên Địa sinh ngô hữu ý vô 天地生吾有意無
Vị sinh thiên địa nội hàm ngô 未生天地内含吾
Ngô thiên địa hợp tam tài lập 吾天地合三才立
Thiên địa ngô đồng nhất tự đồ 天地吾同一字圖
Ngô xuất địa thời thiên chuyển động 吾出地時天轉動
Thiên giao ngô tịch địa bao lô 天教吾闢地包瀘
Địa thiên tải phúc ngô sinh lạc 地天載覆吾生樂
Thiên địa hóa công ngô hữu hồ 天地化工吾有乎
Trời Đất sinh Ta có ý không?
Chưa sinh Trời Đất có Ta trong
Ta cùng Trời Đất ba ngôi sánh
Trời Đất in Ta một chữ đồng
Đất nứt Ta ra Trời chuyển động
Ta thay Trời mở Đất mênh mông
Trời che Đất chở Ta thong thả
Trời Đất Ta đây đủ hoá công.
(Chí sĩ Trần Cao Vân nxb Đà Nẵng 1999 tr.75-79)
[3] Lê Anh Dũng-Lịch sử Cao Đài Thời kỳ tiềm ẩn (1996) ch.II
[4] Theo sử liệu của Ban Tín Sử Cao Đài Tiên Thiên
[5] I have provided all kinds of fruit for you to eat (Genesis 1:29, Good New Bible, Philippine Society)
[6] Sách Minh Đạo Gia Huấn mục số 34 ghi: Hoàng Thiên bất phụ hữu độc thư nhân 皇天不負有讀書人Hoàng Thiên bất phụ hữu đạo tâmnhân 皇天不負有道心人 Hoàng Thiên bất phụ hữu hảo tâm nhân 皇天不負有好心人.
Nghĩa là: Trời không bỏ quên người có đọc sách (người học thức)
Trời không bỏ quên người có tấm lòng đạo đức.
Trời không bỏ quên người có lòng tốt.
[4] Theo sử liệu của Ban Tín Sử Cao Đài Tiên Thiên
[5] I have provided all kinds of fruit for you to eat (Genesis 1:29, Good New Bible, Philippine Society)
[6] Sách Minh Đạo Gia Huấn mục số 34 ghi: Hoàng Thiên bất phụ hữu độc thư nhân 皇天不負有讀書人Hoàng Thiên bất phụ hữu đạo tâmnhân 皇天不負有道心人 Hoàng Thiên bất phụ hữu hảo tâm nhân 皇天不負有好心人.
Nghĩa là: Trời không bỏ quên người có đọc sách (người học thức)
Trời không bỏ quên người có tấm lòng đạo đức.
Trời không bỏ quên người có lòng tốt.
[7] Trang Tử 莊子 thiên Đại Tông Sư 大宗師:Phù Đạo hữu tình hữu tính,vô vi vô
hình, khả truyền nhi bất khả thọ, khả đắc nhi bất khả kiến, tự bổn tự
căn, vị hữu thiên địa, tự cổ dĩ cố tồn夫道有情有信,無為無
形,可傳而不可受,可得而不可見,自本自根,未有天地,自古以固.
形,可傳而不可受,可得而不可見,自本自根,未有天地,自古以固.
[8] 一本散萬殊,萬殊歸一本(Một gốc phóng ra muôn cái khác nhau, muôn cái khác nhau trở về một gốc)
[9] Thần minh giáng đản, dĩ nghĩa khởi giả dã. Ngọc Đế sinh ư chánh ngoạt sơ cửu nhựt giả, dương số thủy ư nhứt, nhi cực ư cửu, nguyên thủy yếu chung dã 神明降誕,以義起者也。玉帝生於正
月初九日者,陽數始於一,而極於九,原始要終也
[10] Thánh Huấn hiệp tuyển q.1 nxb Tôn giáo 2007 tr.135
[11] Tam hoa 三花: Ba thứ hoa trong nội công tâm pháp của Đạo gia. Ngọc hoa 玉花 tượng cho Tinh 精, Kim hoa 金花 tượng cho Khí 氣, Cửu hoa 九花 tượng cho Thần 神.
[12] Thiên mệnh chi vị tính, suất tính chi vị Đạo, tu Đạo chi vị giáo 天命之謂性,率性之謂道,修道
之謂教 (Trung Dung ch.1)
[13] Ý nói qui Tam Giáo, hiệp Ngũ Chi. Tam hoa tụ đảnh, Ngũ khí triều nguyên.
[14] Chín hội qui gia: Hội đủ Cửu chuyển huờn hư là giai đoạn cuối của Đơn đạo.
[15] Theo sử liệu của Ban Tín Sử Cao Đài Tiên Thiên
[16] Toàn Chân Giáo: Vương Trùng Dương (1113 - 1170) là một đạo sỹ sống vào đời nhà Tống, là người sáng lập ra Toàn Chân giáo, là Bắc Tông của Đạo giáo Trung Hoa.
[17] Theo Chánh khóa khóa văn 正課課文(boktakhk.pixnet.net)
[9] Thần minh giáng đản, dĩ nghĩa khởi giả dã. Ngọc Đế sinh ư chánh ngoạt sơ cửu nhựt giả, dương số thủy ư nhứt, nhi cực ư cửu, nguyên thủy yếu chung dã 神明降誕,以義起者也。玉帝生於正
月初九日者,陽數始於一,而極於九,原始要終也
[10] Thánh Huấn hiệp tuyển q.1 nxb Tôn giáo 2007 tr.135
[11] Tam hoa 三花: Ba thứ hoa trong nội công tâm pháp của Đạo gia. Ngọc hoa 玉花 tượng cho Tinh 精, Kim hoa 金花 tượng cho Khí 氣, Cửu hoa 九花 tượng cho Thần 神.
[12] Thiên mệnh chi vị tính, suất tính chi vị Đạo, tu Đạo chi vị giáo 天命之謂性,率性之謂道,修道
之謂教 (Trung Dung ch.1)
[13] Ý nói qui Tam Giáo, hiệp Ngũ Chi. Tam hoa tụ đảnh, Ngũ khí triều nguyên.
[14] Chín hội qui gia: Hội đủ Cửu chuyển huờn hư là giai đoạn cuối của Đơn đạo.
[15] Theo sử liệu của Ban Tín Sử Cao Đài Tiên Thiên
[16] Toàn Chân Giáo: Vương Trùng Dương (1113 - 1170) là một đạo sỹ sống vào đời nhà Tống, là người sáng lập ra Toàn Chân giáo, là Bắc Tông của Đạo giáo Trung Hoa.
[17] Theo Chánh khóa khóa văn 正課課文(boktakhk.pixnet.net)