Trí tuệ
VỊ THẦY HƯỚNG DẪN TÂM LINH CỦA BẠN
VỊ THẦY HƯỚNG DẪN TÂM LINH CỦA BẠN
Ngay từ đầu trong suốt quá trình tồn tại của linh hồn, chúng ta đã được trao cho những người thầy hướng dẫn tâm linh để hỗ trợ, chỉ bảo và dẫn dắt chúng ta từng bước trên hành trình linh hồn.
Khi chúng ta được sinh ra trên trái đất, những sinh mệnh yêu thương này tiếp tục hướng dẫn chúng ta trong suốt cuộc đời để đảm bảo rằng bạn tìm thấy mục đích sống thực sự của bạn.
Mặc dù theo trực giác, bạn biết rằng họ ở xung quanh chúng ta, nhưng bạn không thể nhìn thấy họ bằng con mắt vật lý.
Những vị thầy hướng dẫn là những linh hồn rất tiến hóa, những người đã hoàn thành tất cả các bài học của họ, kết thúc vòng luân hồi, không tái sinh nữa. Họ ở đây để giúp chúng ta đạt được điều tương tự như họ đã đạt được.
Những vị thầy này luôn theo dõi, quan sát mọi thứ xảy ra với bạn.
Họ ảnh hưởng đến cuộc sống của bạn trên Trái đất và tương tác với bạn theo nhiều cách khác nhau.
Họ tương tác với chúng ta thông qua các cách như sau:
✅ Trực Giác: một khi trực giác chợt lóe lên ý nghĩ nào đó, thông điệp đó có thể là được họ gửi đến cho bạn. Điều thật không may mắn là nhiều người đã bỏ qua trực giác của mình. Hãy lắng nghe nó ! vì thông tin đó rất có giá trị, nó có tầm quan trọng cực kỳ.
Bất cứ khi nào bạn cảm thấy có một điều gì đó xuất hiện trong đầu của bạn, đó là sự dẫn dắt của linh hồn, nó sẽ hướng dẫn cho bạn biết về việc bạn nên quyết định như thế nào trước các lựa chọn của mình, vì vậy nên hãy tin tưởng vào linh cảm đó.
Trực giác đó cũng có thể là những bài học mà bạn đã nắm vững từ những kiếp sống trước, đang được gửi đến bạn, để bạn nhớ lại những trí tuệ cổ xưa của mình !
Bạn sẽ cảm thấy có một cảm giác ruột thịt, gần gũi, quen thuộc khi nhận những thông điệp đó. Vị thầy hướng dẫn của bạn đang cố gắng gửi cho bạn một số thông tin rất quan trọng và mục đích của cảm giác kỳ lạ đó là khiến bạn nhận thức được, để suy xét và đặt câu hỏi cho quyết định cụ thể nào đó.
✅ Các Tình Huống Bất Khả Thi: Đây luôn là những tình huống được sắp xếp bởi vị thầy hướng dẫn của bạn để đảm bảo một sự kiện cụ thể được diễn ra.
Tất cả chúng ta đều có một kế hoạch linh hồn, được thiết kết rất tỉ mĩ và chi tiết về những gì sẽ xảy ra trong cuộc đời, nhằm đảm bảo cho chúng ta có được những trải nghiệm cần thiết để học một bài học nhất định, vì sự tiến bộ và tiến hóa của linh hồn.
Biến cố xảy ra với bạn bởi vì hai mục đích sau đây :
- Cảnh báo cho bạn biết hãy suy xét kĩ về một kế hoạch lớn, quan trọng hơn.
- Báo hiệu cho bạn về một số tình huống chắc chắn phải xảy ra.
✅ Các Cuộc Gặp Gỡ Tình Cờ, nhưng hoàn toàn không có cái gì là ngẫu nhiên: vị thầy tâm linh khiến việc đó xảy ra, có những lực lượng ánh sáng cao hơn đã tạo ra những sự kiện cụ thể này cho bạn và cho mọi người để trải nghiệm những cuộc gặp gỡ này.
Với suy nghĩ thông thường của một con người, chúng ta đơn giản là thiếu tỉnh thức để thực sự hiểu những trải nghiệm này. Bạn cần phải cởi mở hơn để đón nhận thông điệp bằng cách lắng nghe tiếng nói bên trong của mình, lắng nghe vị thầy hướng dẫn của bạn.
Nhiều người trong chúng ta hoàn toàn có thể giao tiếp với vị thầy tâm linh của mình. Bạn chỉ cần mở lòng ra và đặt câu hỏi !
Bạn cần phải nhận thức rất tinh tế về những sự việc xảy ra trong cuộc sống, để có thể dễ dàng hơn trong việc đón nhận thông điệp, bởi vì chúng sẽ không xuất hiện hay đánh vào đầu của bạn.
Một cách tốt nhất để kết nối với vị thầy tâm linh của bạn là ở trạng thái thiền sâu hoặc mơ ngủ, tôi gọi đó là liên hệ trực tiếp, bởi vì, trong chiều không gian 3D có quá nhiều ảo tưởng và giả mạo.
Khi bạn đi vào thực tại của chiều kích cao hơn, nơi mà bạn biết, bạn thật sự là ai, đây là một trong những cách tốt nhất để truy cập vào tiềm thức của bạn và giao tiếp với vị thầy hướng dẫn của mình. Tiềm thức của bạn là cầu nối giữa bạn và các cõi cao hơn bởi vì không có hạn chế nào trong những chiều kích đó.
Bạn cần phải học cách trở nên tĩnh lặng và đi vào bên trong vì bạn luôn được dẫn dắt, kết nối với họ và luôn được bảo vệ từ họ.
Hãy suy nghĩ về nó ...
Tác giả: Teri Wade
Người dịch: Thu Trang & Quỳnh Châu
https://www.facebook.com/teri.wade.1610/posts/388417375466002
Hiểu biết về nhận thức 3D, 4D và 5D
Hiểu biết về nhận thức 3D, 4D và 5D
Quá trình thăng thiên
Trong quá trình chuyển đổi nhận thức hiện tại của chúng ta, điều quan trọng là chúng ta hiểu rằng chính mỗi phút giây của mỗi ngày. Chúng ta đang trải nghiệm thực tế tại một trong 3 trạng thái nhận thức này. 3 trạng thái nhận thức là chiều thứ 3, 4 hoặc 5 ( 3D, 4D, 5D). Chúng ta thực sự di chuyển qua lại giữa ba trạng thái suốt cả ngày và thậm chí không nhận thức được điều đó.
Hiểu trạng thái nhận thức mà bạn đang trải nghiệm trong cuộc sống tại bất kỳ thời điểm nào. Nó sẽ giúp bạn tiến tới việc có thể truy cập và duy trì nhận thức 5D. Đó là quá trình thăng thiên. Nhận thức Trái đất đang chuyển từ chiều thứ 3 sang chiều thứ 5. Và cô ấy đã mời tất cả chúng ta, những người đã sẵn sàng tham gia cùng cô ấy.
Thực tế chiều thứ 3 ( 3D )
Chúng ta đã được sống trong thực tế chiều thứ 3. Trong thực tế chiều thứ 3, chúng ta có chiều dài, chiều rộng và chiều sâu, đại diện cho quá khứ, hiện tại và tương lai. Cấu trúc chiều thứ 3 là một thực tế cực kỳ hạn chế. Nó tạo nên ảo ảnh mà chúng ta đã bị giam hãm trong một khoảng thời gian dài đến mức chúng ta không thể đo lường được. Nhưng điều này đang thay đổi nhanh chóng như là một phần của sự thay đổi nhận thức.
Ví dụ về một người đang trải nghiệm cuộc sống từ nhận thức 3D:
* Họ sẽ xem những điều xảy ra với họ chỉ là sự trùng hợp và không đồng bộ ( không phải là kết quả của một điều gì đó, không phải là nhân quả, được sắp xếp trước).
* Mọi người sẽ tin rằng suy nghĩ và cảm xúc của họ không ảnh hưởng gì đến với thực tế của cuộc đời họ.
* Sẽ trải nghiệm cuộc sống như hai mặt của một vấn đề, rằng mọi thứ là tốt - xấu, đúng- sai…
* Họ sẽ tin rằng cuộc sống là một cuộc cạnh tranh, không có sự kết nối trọng mọi vật, mọi việc, mọi nơi, mọi thời điểm.
Thực tế chiều thứ 4 ( 4D )
Einstein đã nói về chiều thứ 4 là trạng thái tồn tại thời gian, nhưng ông cũng nói rằng thời gian là một ảo ảnh. Khi chúng ta trải nghiệm thực tế của mình thông qua 5 giác quan, chúng ta thực sự đang ở trong cái bẫy mang tên thời gian, tạo ra ảo ảnh ở ngay đây, đó là NGAY BÂY GIỜ, một quá khứ và một tương lai. Chiều thứ tư chứa năng lượng cõi trung giới và nơi bạn đi trong hành trình du hành thể vía.
Ví dụ về một người đang trải nghiệm cuộc sống từ ý thức 4D:
* Họ sẽ nhận ra rằng suy nghĩ và cảm xúc của chúng ta làm thay đổi thực tế
* Cũng sẽ hiểu sự đồng bộ, và rằng có nhiều thứ cho cuộc sống để suy nghĩ và học hỏi hơn cho sự tiến hóa.
* Cá nhân tìm kiếm ý nghĩa sâu sắc hơn đối với cuộc sống và nhận thức thế giới thông qua 6 giác quan, giác quan thứ 6 là trực giác của ho bắt đầu phát triển, lớn mạnh và rộng mở.
* Họ sẽ đặt tầm quan trọng vào thiền định, chế độ ăn uống, hướng đến lối sống lành mạnh và có khát vọng mạnh mẽ để tìm mục đích, đam mê và tìm ra cách để thực hiện ước mơ của mình.
Thực tế chiều thứ 5 ( 5D )
Trong chiều thứ 5, là trường thống nhất, mọi thứ đều được kết nối. Ở chiều thứ 5, chúng ta không phải là những cơ thể này, mà là nguồn lực sống nguyên thủy, là nhận thức, đang chảy qua những cơ thể này. Điều này .. thay đổi tất cả mọi thứ! Chúng ta sẽ không còn bị giới hạn để trải nghiệm thực tế chỉ qua 5 giác quan của mình, vì vậy cái bẫy mang tên thời gian sẽ không còn tồn tại.
Ví dụ về một người đang trải nghiệm cuộc sống từ nhận thức 5D:
* Họ sẽ hiểu rằng mọi trải nghiệm đều có ý nghĩa và mọi thứ xung quanh cuộc đời họ đều có thông điệp cao hơn.
* Sẽ nhận ra rằng tất cả chúng ta thực sự là một, và tất cả mọi người và mọi thứ trong vũ trụ đều được kết nối.
* Sẽ cảm thấy tràn ngập những cảm xúc từ bi, tình yêu và niềm vui cho tất cả cuộc sống và hiểu rằng tất cả mọi người đang thực sự trên hành trình của riêng mình.
* Họ sẽ hiểu rằng không có tính hai mặt, không có mặt tốt và mặt xấu, không có cạnh tranh và không có sự phán xét
Khi chúng ta nâng cao ý thức của mình lên theo mỗi chiều, chúng ta có một nhận thức mở rộng về thực tại, cảm nhận được bài học qua sự trải nghiệm và tồn tại lớn hơn rất nhiều, đồng thời ta có thể tồn tại trên tất cả các chiều kích. Quá trình này được gọi là sự nâng cao của nhận thức của chúng ta, hay sự thăng thiên, và chúng ta đang nhanh chóng di chuyển theo cách đó, đi từ vô thức tách rời thành nhận thức thống nhất. Như một phần của sự thăng lên này, chúng ta sẽ hiểu mối liên hệ của chúng ta với tất cả, cho đến khi chúng ta quay trở lại, với nhận thức, nơi chúng ta đến từ Nguồn.
Hiểu 3 trạng thái này sẽ giúp bạn đánh giá các hành vi, quá trình suy nghĩ, phản ứng, tương tác cảm xúc hàng ngày của bạn. không chỉ với bản thân mà còn với những người khác và cuộc sống nói chung, phù hợp với nhận thức 3D, 4D hoặc 5D. Một khi bạn có thể nhận ra rằng bạn không ở trong nhận thức 5D, thì việc chuyển bản thân và chuyển sang 5D sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.
Nguồn Mike Picone
Người dịch: Nguyễn Dung
CẨN NGÔN - Huệ Ý
VỀ CẨN NGÔN
Đối với người tu tìm cầu giải thoát thì làm sao để nghiệp không ràng buộc mình vào sáu nẻo luân hồi là quan trọng. Ơn Trên dạy: trước tiên phải tịnh tam nghiệp:
“Trước xem xét thân, tâm, khẩu, ý,
Sau lặng tìm yếu lý lưu hành”.[ Khẩu quyết sơ thiền.]
Khẩu là một mắc xích quan trọng của đời tu.
CÁI MIỆNG.
Mỗi người có hai mắt, hai tai, hai mũi, thế mà chỉ có một cái miệng. Trong ngũ giới cấm, cái miệng phạm tội đến hơn phân nữa:
1. ăn : nhứt bất sát sanh;
2. uống: tứ bất tửu nhục;
3. nói: ngũ bất vọng ngữ.
Người tu cũng dùng cái miệng để:
1. tụng kinh, công phu để tự độ ;
2. thí pháp: phấn đấu tu khá thì được Ơn Trên ban ân thuyết trình và giảng đạo để độ tha.
ĂN : NHỨT BẤT SÁT SANH.
BẤT SÁT SANH: cấm giới đầu tiên, quan trọng nhất vì phạm rồi không thể cứu vãn, không thể tái lập nguyên trạng. Ơn Trên dạy:
“Điều thứ nhứt: sát sanh hại mạng,
Kẻ thác oan, thù oán rất sâu;
Báo đời này cho tới kiếp sau,
Nghiệt oan ấy chừng nào đặng giải?[ Minh Lý Đạo, Tam Tông Miếu “Bố cáo, Sám hối, Tịnh nghiệp vãn, Nhựt tụng, Giác thế” tr.186.]”
Ăn chay là đạo công bình, việc gì mình không muốn người khác làm cho mình thì mừng đừng làm cho người khác. Chúng ta nghĩ tới cảnh có người bẻ giò, bẻ tay mình ăn thì sẽ ra sao. Phải phấn đấu ăn chay trường thì mới hết sát sanh. Ăn chay kỳ là vẫn còn gián tiếp phạm sát.[ Tại chợ Long Hoa (Tây Ninh) trước khi hòa bình, vào những ngày thập trai không có quày thịt nào cả, vì bán không ai mua. ] Người ăn chay trường vẫn còn mạng nợ của cây cỏ, phải rán tu để cứu độ lại chúng sanh, trong đó có chúng. Ơn Trên dạy:
“Hoặc giận hờn mưu tính độc sâu,
Hoặc bước chân trùng kiến đạp nhầu;
Hoặc tay bẻ cọng rau vô cớ,
Phàm đã quyết tu hành phải nhớ,
Răn sát sanh từ chỗ tế vi…”[ Minh Lý Đạo, Tam Tông Miếu “Bố cáo, Sám hối, Tịnh nghiệp vãn, Nhựt tụng, Giác thế” tr.187.]
Hoa quả là âm dương tiên thiên, không trường chay thì không đi sâu vào công phu để giải thoát được. Trong các nghiệp của người tu thì nghiệp sát và nghiệp sắc là khó chuyển nhứt.
UỐNG : TỨ BẤT TỬU NHỤC.
Tránh sao khỏi lỗi lầm lắm việc;
Gương trước mắt, nhiều điều đáng tiếc,
Người trở nên mất nết hư thân,
Lại còn thêm tánh bạo hay sân,
Bốn giới trên rất khó giữ tròn.
Nếu sát sanh, đạo, vọng, dâm bôn,
Giữa cá nhân với nhau: chúng ta học gương của đức Phật. Một hôm đức Phật đi giảng đạo về, có một người cứ đi sau lưng nói những lời không hay về Ngài. Đến cửa tịnh xá, anh chàng kia hỏi “này Thế Tôn, Ngài có bị khuyết tật tai không?” Đức Phật đáp “Ta vẫn nghe hết!” – Thế sao Ngài không trả lời? Đức Phật chẫm rãi hỏi “khi có người đem tặng ngươi món quà, nếu không nhận thì ngươi làm sao? – Tôi trả lại cho người đó. Đức Phật tiếp “Ta cũng thế, ta trả lại những lời ngươi nói từ nảy giờ với Ta”.
Cổ nhân dạy “Nhân vô tín bất lập” (không giữ lời hứa thì không thể làm bất cứ việc gì!). Cho nên chúng ta phải “Mẫn sự thận ngôn”(siêng năng làm việc mà cẩn thận khi nói). Một lời nói không chính xác mà cứ được lập đi lập lại nhiều lần có thể tạo nghi ngờ thậm chí bị hiểu lầm là đúng, đó là sức mạnh cộng hưởng của lời nói. Mẹ ngài Tăng Sâm khi lần thứ ba nghe đồn con bà giết người, bà hoảng sợ chạy trốn. Dầu Ngài Tăng Sâm không hề làm việc đó. Ơn Trên dạy:
“… Nay vào đạo, mau mau cải quá,
Chẳng những không dối giả hại người;
Lúc chuyện trò cũng chẳng nói chơi,
Kiếp này sợi chỉ trót đà buộc tay”.
Mà phải trả thêm một kiếp thứ mười nữa trong thân Thị Kính, Kính Tâm.
Đức Ngô Đại Tiên dạy trong Thập thanh điều :
“Một khuyên giãm khẩu bớ con,
Hai khuyến báo đáp cho tròn hiếu trung”.
Y = AX2
Y = đoạn đường từ khai khẩu đến tịnh khẩu,
A = nghiệp lực từ các kiếp dồn lại.
X= vọng niệm, càng vọng niệm thì Y càng dài. Ơn Trên dạy “vọng sanh niệm khởi lù lù chúng ma”.
Dừng vọng niệm thì tịnh khẩu ngày (X = 0; Y = AX2 = 0).
LỜI DẠY : PHÁP THÍ – CHUYỂN NGỮ.
Tài thí : giúp cơm áo gạo tiền thì ai cũng thực hiện được.
Pháp thí: giúp lời khuyên, lời hướng dẩn để học, tu, hành đạo thì phải được Ơn Trên ban ân khi hành giả hội đủ những điều kiện tâm hạnh đức tài.
Lời vàng :
Một lời nói cải hóa một đời người. Cụ Phan Bội Châu từ hải ngoại viết thư về báo cho các đồng chí biết Lê Khiết là một chó săn của Pháp, phải coi chừng đừng để bị cắn. Lê Khiết là một người còn lương tâm, ông không thù, không giận cụ Phan, ngược lại còn hối hận trước những hành động chống lại nhân dân, chống lại tổ quốc. Ông tìm cách bắt liên lạc với nghĩa quân và xin tìm cách đoái công chuộc tội. Việc làm này không thể qua mắt thực dân Pháp, chúng bắt ông và đưa ra tử hình. Trước lúc xử bắn, tay sĩ quan Pháp hỏi ông “ngươi đã phản lại chúng ta, vậy có muốn nói gì nữa không? Ông đáp “nửa đời ta đã phạm tội với quốc dân, với đồng bào, nay dòng máu này rửa đi những vết nhơ đó!”.
Chuyển ngữ :
Lời nói giúp chuyển tâm, giải thoát tình trạng trói buộc. Ngài Hồ Tông Thốc, người huyện Thổ Thành, nay là xã Thọ Thành, huyện Yên Thành, Tỉnh Nghệ An, tuổi trẻ đổ cao, làm quan đến chức Hàn lâm học sĩ, Thẩm hình viện sứ. Đời nhà Nguyên, ông được cử đi sứ sang Trung Quốc. Đến Ô giang, có miếu thờ Hạng Vũ, thuyền phu cho biết thuyền bè qua lại đến đây không vào đèn hương lễ bái thì sóng đánh đắm. Ông ra lệnh cứ tự nhiên lướt qua, ngay tức thì mặt sông nổi sóng. Ông ra đầu thuyền lớn giọng ngâm:
“Vua chẳng vua, mà tôi chẳng tôi,
Bến sông miếu mạo để thờ ai?
Giang Đông ngày trước còn chê nhỏ,
Một, tâm của Hạng Vũ đã được chuyển sau khi nghe bài thơ, nên ông đã đi tu, hoặc tái kiếp;
Hai, bài thơ là một câu chú của Ông Hồ Tông Thốc đã trấn yếm, khiến Hạng Vũ không còn tác oai, tác quái nữa.
Đứng trên bục thuyết trình, chúng ta chọn đề tài và ngôn từ trong giới hạn thực tu, thực chứng của mình để tránh tình trạng thọ nghiệp lâu dài như lão tăng dưới thời Bách Trượng. Xin trích lại như sau:
“Cứ mỗi khi hòa thượng Bách Trượng[2] thuyết pháp, thường có một lão già đi sau tăng chúng đến nghe. Khi các thiền sinh rút lui, lão cũng bước ra theo. Thế rồi một hôm, lão bỗng không lui mà nán lại giảng đường. Lúc đó, Bách Trượng mới hỏi:
-Người đứng trước mặt ta, ông là ai vậy?Lão già thưa:
-Tôi không phải loài người. Xửa xưa, thời Phật Ca Diếp[3], tôi đã trụ trì ở núi này. Một hôm, đệ tử có người hỏi rằng người tu hành đạo Phật đến chỗ cao diệu vẫn còn có thể sa vào vòng nhân quả[4] khổ đau hay không.Tôi mới trả lời là không, người như thế không sa vào vòng nhân quả. Vì nói vậy mà suốt một thời gian dài tôi sa vào súc sinh đạo, bị đọa làm thân chồn hoang, cho đến nay đã trải qua năm trăm kiếp. Vậy xin thầy ban cho tôi một câu trả lời đúng để tôi có thể thoát ra khỏi kiếp chồn.
Nói xong, lão đặt lại câu hỏi cho Bách Trượng:
-Thế thì người tu hành đạo Phật đến chỗ cao diệu vẫn còn có thể sa vào vòng nhân quả khổ đau hay sao?
Hòa thượng mới trả lời:
-Không mê muội nhân quả.
Lúc đó, lão già chợt đại ngộ, vái lạy hòa thượng Bách Trượng và nói:
-Như thế thì tôi đã thoát được kiếp chồn. Xác của tôi bỏ lại nằm ở sau núi. Xin thầy hãy lấy lễ chư tăng mà chôn cất cho.
Hòa thượng bèn lệnh cho tăng giữ chức duy na[5] thông tin[6] để chúng tăng tụ họp, báo rằng sau giờ cơm trưa sẽ làm lễ chôn cất một tăng sĩ vừa mới mất. Mọi người ngạc nhiên xôn xao: “Chúng ta mạnh khỏe như thế này, ở Niết Bàn Đường[7] chẳng ai nằm bệnh cả, sao lại bảo thế”. Cơm nước xong hòa thượng hướng dẫn mọi người ra một cái hang đá phía sau núi, dùng trượng khều ra được xác chết một con chồn hoang. Bèn hỏa táng ngay.”
LỜI NÓI CỦA HIỀN GIẢ QUÍ HƠN VÀNG BẠC.
Đức Lão Tử tiễn đức Khổng Tử
“Tôi nghe nói người giàu sang lấy tiền bạc để tiển nhau, tôi không phải là người giàu sang, nhân trộm lấy tiếng là người nhân đức xin có lời này để tiển ông: kẻ thông minh và sâu sắc là gần với cái chết vì họ khen chê người ta một cách thẳng thắn. Kẻ giỏi biện luận, đầu óc sâu rộng làm nguy đến thân mình vì họ nêu lên cái xấu của người khác. … Người buôn giỏi thì biết giấu hàng hóa, người quân tử thì diện mạo dường ngu si. Ông nên bỏ cái khí kiêu ngạo và lòng ham muốn nhiều. Những cái ấy đều không có ích gì cho ông. Tôi chỉ bảo ông có thế thôi.”
LỜI DẠY CỦA CÁC ĐẤNG THIÊNG LIÊNG LÀ TIÊN DƯỢC”.
Tiên dược hoặc Thần dược là phương thang của các Đấng ban cho đệ tử để trừ thân bệnh cũng như tâm bệnh. Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy “Điều mà Bần Tăng mừng hơn hết là đạo hữu (Đức Bảo Pháp Chơn Quân Huỳnh Chơn) ý thức được lời dạy của Đức Vô Cực Từ Tôn, cũng như lời khuyến ái của Đức Nguyệt Điện Tiên Cô (thân mẫu Đức Bảo Pháp Chơn Quân Huỳnh Chơn), đó là hai vị tiên dược đã, đang và sẽ giúp cho đạo hữu phục hồi sinh lực.
Tu là thuốc phổ thông, thiền là biệt dược để trừ các chứng tâm bệnh nan y. Đức Đông Phương Lão Tổ dạy:
“Tu là thuốc chữa bệnh trần,
Thiền là đoạn diệt tham, sân, dục tình”.
TỪ BIỆT NGHIỆP ĐẾN CỘNG NGHIỆP.
Đây là vấn đề của tập thể: gia đình, tổ chức … Một câu nói của người có trách nhiệm (gia chủ, thủ trưởng … ) ảnh hưởng đến con cháu trong gia đình, nhân viên trong tổ chức.
Đức Quan Âm Bồ Tát dạy “người giác ngộ buông bỏ tất cả những gì còn phàm tục đắm mê. Nếu không giác ngộ, thì hơn thua một lời nói cũng chẳng nhịn ai. Mà đó là người thế gian phàm tục, đôi co, tranh chấp; tai họa đao binh cứ khởi mãi, tình cốt nhục cứ chia lìa người trần tục.”
Đức Quan Âm Bồ Tát dạy thêm “Cần yếu là tổ chức được cộng đồng, quân bình sự sống, lấy tình thương tha thứ, từ bi thắt chặt hàng ngũ sao cho nam nữ ai cũng trong trắng tỏ rạng GIỚI HẠNH TẬP THỂ. Nhữ thế danh nghĩa được lan rộng, mà tâm đức cũng chứng đến quả hiền thiện. Được vậy không cần nói nhiều mà người nghe.”
Trong lời dạy này chúng ta lưu ý đến bốn chữ GIỚI HẠNH TẬP THỂ. Trong tập thể thì “mũi dại, lái chịu đòn”, “nhà dột, dột từ trên nóc xuống”. Nếu nhân viên phải uốn lưỡi bảy lần trước khi nói, thì người đứng đầu phải uốn lưỡi bao nhiêu lần trước khi nói? – Bảy mươi lần bảy chăng?
Kinh nghiệm Chưa đổ ông nghè đã đe hàng xóm (trường hợp tiền kiếp của trạng nguyên Lương Thế Vinh). Tiền kiếp của ngài Lương Thế Vinh ở tại huyện Nam Xương (sau này là huyện Nam Ninh) tỉnh Nam Định. Năm 7 tuổi đi học, mỗi ngày ông đi ngang ngôi đền có con chó phục trước cổng. Mắt của ông được khai khiếu thế nào nên mỗi lần đi ngang thấy chó vẩy đuôi mừng. Khi kể lại cho cha nghe, cha ông bảo “nó biết vẩy đuôi thì chắc biết nói, con hỏi xem tại sao mừng con?” Ông nghe lời cha, hôm sau đi ngang đền liền nêu thắc mắc, chó liền đáp “tên ông được ghi vào sổ trạng nên tôi chào mừng.”
Từ lúc biết được tin này, mỗi khi có việc bất đồng với láng giềng, ông đe “rồi xem con ông đổ trạng các người biết!”
Hôm sau đi ngang, con chó lặng yên. Ông ngạc nhiên hỏi “sao người giận gì ta mà không chào như mọi ngày”. Chó đáp “cha ông nói lời tổn đức nên tên ông bị xóa sổ rồi!”.
Ông về từ biệt mẹ để đi nơi khác. Mẹ hỏi “vì sao?” Ông đáp “cha làm tổn đức nên con không viên thành học nghiệp được để phò vua giúp nước vì thế phải đi!”. Mẹ hỏi “con đi đâu?”. Ông đáp “ngày ấy, tháng ấy mẹ đến thôn Cao Hương, huyện Thiên Bản (nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản) tỉnh Nam Định thì rõ!”.
Muốn xây dựng tăng đoàn Đức Phật dạy Lục hòa trong đó “KHẨU HÒA VÔ TRANH”.
TỪ TỊNH KHẨU ĐẾN HUỆ KHẨ̉U.
Khi hành giả mở được huệ khẩu thì lời nói trúng được sự việc, lợi cho đồng đạo, đồng bào, giúp cho tập thể tinh tấn trên đường tu.
Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo dạy “Bảo Pháp Chơn Quân (Huỳnh Chơn) hiền đệ! Bao năm tu luyện , hiền đệ vừa phát huệ khẩu rồi chớ ? Cười… Phát huệ có những bộ phận khác nhau như : huệ nhãn, huệ tâm, huệ nhĩ, huệ khẩu.
Điều này ít ai phân biệt được thế nào là huệ khẩu, nhưng khi phát ngôn bất thần mà trúng ngay sự việc, ích lợi cho vấn đề, đó cũng là huệ khẩu. Những nhân sanh đa số vì còn nặng nghiệp vô minh, đến khi nào tu tiến cho nhiều, lớp vô minh đó càng mỏng tan biến dần, minh châu sẽ hiện, đó là huệ” {TLD 20.9. Kỷ dậu].
Làm sao để mở được huệ khẩu? Khi về cõi vô hình, Đức Bảo Pháp Chơn Quân Huỳnh Chơn trở về dạy đàn em “Người nguyên nhân sứ mạng được thọ Thiên ân trên bước đại thừa phải có đủ tâm đức thần thông mà thực hiện Thiên đạo, xây dựng đời thánh đức cho vạn vật vạn sinh. … Trong thân con người có sẳn một máy huyền linh, một bầu đơn dược. Vì tình thức lấp che nên bỏ chơn mượn giả. Gia tài của cải chôn sâu trong biển thận. Thần thông tản mát ở mắt tai (tỉ, thiệt, thân, ý). Thâu thần thông, khai quật kho tàng quí báu. Có phá mê mới biết được đường về nguyên xứ, hội nhập cùng khối đại linh quang, mới xứng đáng một kiếp nhơn sanh vô giá bảo. [CQ, 01.7.Nhâm Tuất].
Thần là yếu tố quan trọng đối với các hành giả tu công luyện kỷ. Thần không tự nhiên mà có: Tâm định thì Thần trụ. Cái miệng lại liên quan đến việc luyện thần, Đức ĐÔNG LÃO TỔ DẠY “Khẩu khai thần tán” vì vậy tịnh viên phải tịnh khẩu. Không những tịnh khẩu mà phải tịnh luôn năm căn còn lại: nhãn, nhĩ, tỉ, thân, ý. Tịnh lục căn là thâu thần, huân tập nhiều ngày thì tự mở được thần thông. Đức Đông Phương Lão Tổ dạy “Nếu biết điều thần dẩn khí thì phàm tâm trở lại thánh tâm, sáu nẻo luân hồi hóa thành sáu thông ba la mật” [MLTH 10.11.Bính Thìn].
Có được huệ khẩu thì việc phổ thông giáo lý của hành giả thêm nhiều hiệu năng, kết quả. Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy “Mỗi một người trong thế gian khi lòng được thanh tịnh, tâm được hướng thượng, sẽ tiếp nhận được luồng thanh điển, nói ra những lời vàng ngọc tỉnh thế ngộ chơn. Có khi chính mình mà mình cũng không biết đó là lời truyền của chư Tiên Phật”.
KẾT LUẬN :
1.Từ lúc phát tâm tu học, cẩn ngôn đã là việc cần làm ngay để trở nên người chơn tu.
2.Nghiệp của cá nhân không thể nào tách khỏi nghiệp tập thể: từ gia đình đến xã hội, khi đã mang vào trách vụ thì càng phải cẩn ngôn vì liên quan đến sự thăng trầm, sống còn của tập thể.
3.Đối với hàng ngũ thuyết trình giảng đạo thì giãm khẩu, tịnh khẩu để tiếp được sự ân ban của Ơn Trên, càng ngày càng tiếp cận với huệ khẩu mới mong hoàn thành được sứ mạng.
BÀI VỠ LÒNG
Vĩnh Nguyên Tự, Tuất thời 01 tháng 10 Quý Sửu (26.10.1973)
…..
ĐÔNG PHƯƠNG CHƯỞNG QUẢN …
Chư hiền đệ, hiền muội Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý rất lòng thành kỉnh đối với Thiêng Liêng, Bần Đạo lưu lại đôi vần gọi là vở lòng. Chư đệ muội sẽ vững vàng trên đường tu tánh luyện mạng. Gọi là vở lòng, nhưng hầu hết không ai thuộc mặc dầu đã được lên lớp!
Chư đệ muội nghe đây!
Bài:
1.Ta đến chỉ con đường thoát khổ,
Cho người đời giác ngộ quày chơn;
Đời còn mưa gió nhiều cơn,
Chim khôn lót tổ, người khôn liệu lường.
2.May mắn được vào trường tiến hóa,
Thánh phàm trong hai ngã cận kề;
Phàm phu lặn hụp sông mê,
Thánh tâm vượt khỏi trần nê ái hà.
3.Phàm hay Thánh suy ra cho tột,
Phật hay ma chỉ một cái tâm;
Tâm là thiện ác khởi mầm,
Siêu thăng cũng đó, đọa trầm là đây.
4.Người đem cái tâm này biện luận,
Dầu đạo đời cảm ứng không sai;
Muôn kinh ngàn điển xưa nay,
Khuyên đời độ chúng không ngoài cái tâm.
5.Nói rất dễ mà làm rất khó,
Mình dối mình nào có hay đâu;
Tâm thường điên đảo vọng cầu,
Phật Tiên cũng muốn công hầu cũng ham.
6.Đọc kinh sách tâm làm quân tử,
Sỉ diện đời tâm giữ nghĩa nhân;
Vào đời chen lấn thua hơn,
Thì tâm lại nổi nhiều cơn bão bùng.
7.Nào được mất muôn chung ngàn tứ,
Nào nhục vinh danh dự bạc tiền;
Nào sự nghiệp, nào tình duyên,
Sống, ăn, mặc, ở triền miên lo lường.
8.Một lời nói tâm thường chủ động,
Một việc làm sống chết do tâm;
Chủ quan tâm phải sai lầm,
Hóa nên ích kỷ độc tôn kiêu kỳ.
9.Tham sân có thì si sẳn có,
Hễ si thì tâm khó quân bình;
Thánh xưa kia có răn mình,
Là giới thận độc cho tinh mọi người.
10.Nói không phải, một lời không nói,
Làm hại người, mình lợi không làm;
Tham dầu việc nhỏ vẫn tham,
Sân dầu việc nhỏ, tánh phàm vẫn sân…
Bần Đạo tạm dừng nơi đây, một dịp khác sẽ tiếp để chư hiền đệ muội suy gẫm.
TU CHƠN GIÁC THẾ
HƯ CUNG ĐÀI
Kiểm Duyệt Ngày 9 Tháng 9 Bính Ngọ - (22-10-1966)
THI :
NHƯ tánh luyện tu đạo đức hành,
Ý đồ nghiệm xét lánh hư danh;
NƯƠNG theo chơn pháp lo trừ trược,
NƯƠNG lấy cơ tâm để lóng thanh.
NGUYỄN phủ khai quang hồi phước cả,
THỊ thiên vui sống tránh đường quanh;
MINH quang phóng thước dìu đời bước,
HỒNG bác độ tha đạo phúc lành.
NƯƠNG NƯƠNG mừng chư hiền đệ muội.
THI :
Hương thơm bay khắp chốn đàn tiền,
Rượu thánh mùi ngon gội phước duyên;
Kinh tả truyền ban ghi kỉnh dạ,
Khuyến tu thế đạo gắng tâm thiền.
Hôm nay NƯƠNG NƯƠNG vâng sắc chỉ NGÔI HAI GIÁO CHỦ giáng đàn tả kinh “TU CHƠN GIÁC THẾ”
Vậy chư hiền nam nữ khá tịnh tâm, tịnh đàn nghe NƯƠNG NƯƠNG chỉ giáo :
CHƠN ĐẠO
Đời là cõi tạm, có rồi không, hiệp rồi tan, sanh rồi tử…. Còn Đạo dầu rằng không hình tướng, nhưng biến hóa vô cùng, mầu nhiệm. Khi con người thuận nhận và biết đặt mình vào khuôn trường Chơn Đạo, rồi mới thấy tác dụng mầu nhiệm siêu ứng là dường nào.
Hôm nay NƯƠNG NƯƠNG không muốn diễn tả lại những lẽ thông thương như phần phổ giáo công truyền nhập thế, mà NƯƠNG NƯƠNG dẫn giải sau đây :
Tu nghĩa là gì ?
Hẳn chư hiền đệ muội cũng đã am hiểu là sửa, là trau giồi tâm tánh để trở thành con người đạo đức, mà một khi con người biết sửa được sự lỗi lầm, sai quấy, biết đối xử cái Đạo làm người rồi tức là : CON NGƯỜI ĐÃ THÀNH CON NGƯỜI. Ví dụ như : người uống rượu, bạc cờ mà bỏ được đó là thành trong sự việc, cũng tạm gọi là con người thành tại thế với những lỗi lầm, bịnh tật lôi cuốn con người mà bỏ được. Có phải là thành NGƯỜI chăng ? Và khi được hoán cải được trọn lành tức là bước vào hàng siêu nhân. Từ cái thành bực siêu nhân được vào trường Tu Tịnh phần Chơn Đạo, người tu rất dễ trở lại ngôi xưa vị cũ, tác thành Tiên Phật để xa lánh cõi trần ô trược kềm buộc.
Vậy người tu cần phải TU LUYỆN, tu luyện Đạo để siêu phàm nhập Thánh.
Nhưng trước khi muốn luyện tu Chơn Đạo, chư hiền đệ muội phải tâm thức về nhơn đạo, cụ thể hóa như đối với việc gia đình, đừng để có sự trì níu, hầu có yên tâm, rảnh trí ngồi tu tịnh luyện.
HƯ VÔ CHƠN PHÁP :
Tiên Thiên diệu pháp biết tầm tu,
Mở cửa vô vi vạt ngút mù;
Bể khổ lấp lần xa nghiệp chướng,
Đường mê tránh khỏi được khinh phù.
Tà tâm diệt dứt rèn tâm huệ,
Linh tánh sáng soi phá tánh ngu;
Ích kỷ hại nhơn đừng học hỏi,
Bồng Lai bước tới cảnh nhàn du.
BÀI :
Đường giải thoát Đạo Trời rộng mở,
Sự tu chơn soi tỏ linh hồn;
Đừng nên tự phụ tự tôn,
Cũng không bất cập bôn chôn rộn ràng.
Người tu tịnh hữu căn mới được,
Bằng không thì vô phước quỉ lôi;
Để mê tưởng luyến tiếc đời,
Đem mồi câu nhử rồi thời sang ngang.
Trước tu thân,
Vững tinh thần;
Đạo pháp phân.
Hễ tu tịnh ngũ quan vận chuyển,
Lúc tham thiền phát triển tâm khai;
Định, yên không vọng bên ngoài,
Gom thần tiếp chuyển đến đài Hư Vô.
Luyện chơn ngươn đáy hồ tịnh lặng
Nguyên lý tầm rửa đặng tâm không;
Vận hành chơn khí nội công,
Kết xâu xá lợi khai thông có đều.
Biết nấu thuốc riêu riêu ngọn lửa,
Để Chơn Cơ sửa chữa giác quan;
Hà phanh thể luyện nhịp nhàng,
Khãm ly biến hóa, Khôn càn định phân.
Phải biết lọc Khí, Thần, Huyết hóa,
Tinh điển truyền phát họa Bảo Ngươn;
Rồng lên cọp xuống thể phân,
Âm dương kết tụ lần lần chuyển thân.
Hống diên chế ân cần nhuận bổ,
Cân lượng đều đừng có giảm tăng;
Địa nhi hỏa vọng sanh bằng,
Tinh đầy, khí đủ, thần an mới tài.
Pháp định chuyển kêu mây, hú gió,
Giữ bình thường được ngộ Huyền Quang;
Dày công hô hấp giáng thăng,
Hậu thiên động tác để phăng Nê Hườn.
Lý siêu việt linh hồn tối yếu,
Điều hành sao đừng thiếu đừng dư;
Đảnh cao bể cả ý như,
Lóng trong gạn đục cộng trừ Hà Xa.
Luyện hồn phách biết qua xuất nhập,
Tầm song mâu bồi đấp tinh vi;
Chuyển luân tâm pháp đúng kỳ,
Để hầu đem lại Tu Di chiếu lần.
Hành trụ tọa ngọa phân nắm pháp,
Yểu yểu khai hòa hạp Huyền Huyền;
Mồ Kỷ nhị Thổ kết liên,
Minh Châu thành tựu phục nguyên đẹp màu.
Việc động tác phải sao đều ổn
Tâm cơ gìn, hễ thốn, thận suy;
Đồ thơ ôn cố tinh vi,
Giữ gìn bốn buổi chớ ly dặn lòng.
Say mùi Đạo hoát thông chơn pháp,
Mới trở về bửu pháp Phật Tiên;
Chớ cho ám ảnh, nhiễu phiền,
Tịnh ngồi đúng hướng khí thiên đủ đầy.
Tịnh cho đúng siêu khai thần, khí,
Thận định yên kiến thị Kim Đơn;
Vận hành phân tách cộng nhơn,
Rồi đem Nguyệt Khí bảo tồn Chơn Dương.
Lẽ tịnh động hai đường mà một,
Tịnh trong Động thâu được Châu Thiên;
Điều hòa chuyển vận liền liền,
Thần công thể dụng Hạo Nhiên tụ hườn.
Phép Siêu Xuất Kim Đơn chế luyện,
Không mà Có vận chuyển kịp ngày;
Cho nhằm, cho đúng nhập khai,
Để rồi kết lại thánh thai mới mầu.
Còn khi động vận thâu xuất nhập,
Để dương thần huyền pháp khai minh;
Dưỡng nuôi khí hạo trọn gìn,
Đừng cho nóng quá làm chinh Huỳnh Đình.
Hiểu tân pháp trường sinh cấu tạo,
Rán tầm cơ thông thạo công phu;
Quán canh Cửu Khiếu đừng lu,
Gắng công giồi luyện khỏi hư, khỏi mòn.
Hiểu mất, còn,
Chú niệm tròn;
Tạo lòng son.
Lò Tạo Hóa pháp môn luân chuyển,
Máy vô vi ẩn, hiện diệu huyền
Huân chưng lọc kỹ thường xuyên,
Âm Dương kết cấu đem lên Nê Hườn.
Biết trúc kỷ nhịp nhàng sắc chói,
Phép thượng đằng Sóc Hối lưỡng huyền;
Muốn thành cho được Phật Tiên,
Trường sinh qui hướng tầm nguyên chơn truyền.
Hãy cố gắng tường (tương) liên hồn xác,
Xác hóa phân, Hồn đạt bửu nguyên;
Xác kia tẩy sạch não phiền,
Thì hồn trực giác cảnh Tiên siêu đằng.
THI :
Tu đơn tụ Khí được an Thần,
Ráp máy Càn Khôn chuyển phép chân;
Bộ phận lau chùi thường bốn buổi,
Hào quang mới chiếu thấy Kim Thân.
Hỡi chư hiền đệ muội !
Phương pháp luyện tu Chơn Đạo Cao Đài, là một phương pháp “KHẮC KỶ SIÊU NHÂN” để đi đến “PHẢN HƯỜN HƯ VÔ CÀN KHÔN ĐỊNH VỊ”.
Sự vận chuyển định tịnh chế phách luyện hồn phải được “BẤT TƯỞNG NHIỄM DỤC”, biết động trong lúc tịnh, dùng cái phép “THỨC ÂM PHÁT DƯƠNG” trong Lục Căn :
THẤY mà không tham, không muốn,
NGHE mà chẳng động, chẳng cảm;
NGỬI mà không say, không mê,
NẾM mà chẳng thèm, chẳng nghĩ.
MÌNH giữ đặng sạch, đặng khỏe,
Ý giữ đặng lành, đặng vui.