kinh “ TU CHƠN GIÁC THẾ ”
HƯ CUNG ĐÀI
Kiểm Duyệt Ngày 9 Tháng 9 Bính Ngọ - (22-10-1966)
THI :
NHƯ tánh luyện tu đạo đức hành,
Ý đồ nghiệm xét lánh hư danh;
NƯƠNG theo chơn pháp lo trừ trược,
NƯƠNG lấy cơ tâm để lóng thanh.
NGUYỄN phủ khai quang hồi phước cả,
THỊ thiên vui sống tránh đường quanh;
MINH quang phóng thước dìu đời bước,
HỒNG bác độ tha đạo phúc lành.
NƯƠNG NƯƠNG mừng chư hiền đệ muội.
THI :
Hương thơm bay khắp chốn đàn tiền,
Rượu thánh mùi ngon gội phước duyên;
Kinh tả truyền ban ghi kỉnh dạ,
Khuyến tu thế đạo gắng tâm thiền.
Hôm nay NƯƠNG NƯƠNG vâng sắc chỉ NGÔI HAI GIÁO CHỦ giáng đàn tả kinh “TU CHƠN GIÁC THẾ”
Vậy chư hiền nam nữ khá tịnh tâm, tịnh đàn nghe NƯƠNG NƯƠNG chỉ giáo :
CHƠN ĐẠO
Đời là cõi tạm, có rồi không, hiệp rồi tan, sanh rồi tử…. Còn Đạo dầu rằng không hình tướng, nhưng biến hóa vô cùng, mầu nhiệm. Khi con người thuận nhận và biết đặt mình vào khuôn trường Chơn Đạo, rồi mới thấy tác dụng mầu nhiệm siêu ứng là dường nào.
Hôm nay NƯƠNG NƯƠNG không muốn diễn tả lại những lẽ thông thương như phần phổ giáo công truyền nhập thế, mà NƯƠNG NƯƠNG dẫn giải sau đây :
Tu nghĩa là gì ?
Hẳn chư hiền đệ muội cũng đã am hiểu là sửa, là trau giồi tâm tánh để trở thành con người đạo đức, mà một khi con người biết sửa được sự lỗi lầm, sai quấy, biết đối xử cái Đạo làm người rồi tức là : CON NGƯỜI ĐÃ THÀNH CON NGƯỜI. Ví dụ như : người uống rượu, bạc cờ mà bỏ được đó là thành trong sự việc, cũng tạm gọi là con người thành tại thế với những lỗi lầm, bịnh tật lôi cuốn con người mà bỏ được. Có phải là thành NGƯỜI chăng ? Và khi được hoán cải được trọn lành tức là bước vào hàng siêu nhân. Từ cái thành bực siêu nhân được vào trường Tu Tịnh phần Chơn Đạo, người tu rất dễ trở lại ngôi xưa vị cũ, tác thành Tiên Phật để xa lánh cõi trần ô trược kềm buộc.
Vậy người tu cần phải TU LUYỆN, tu luyện Đạo để siêu phàm nhập Thánh.
Nhưng trước khi muốn luyện tu Chơn Đạo, chư hiền đệ muội phải tâm thức về nhơn đạo, cụ thể hóa như đối với việc gia đình, đừng để có sự trì níu, hầu có yên tâm, rảnh trí ngồi tu tịnh luyện.
HƯ VÔ CHƠN PHÁP :
Tiên Thiên diệu pháp biết tầm tu,
Mở cửa vô vi vạt ngút mù;
Bể khổ lấp lần xa nghiệp chướng,
Đường mê tránh khỏi được khinh phù.
Tà tâm diệt dứt rèn tâm huệ,
Linh tánh sáng soi phá tánh ngu;
Ích kỷ hại nhơn đừng học hỏi,
Bồng Lai bước tới cảnh nhàn du.
BÀI :
Đường giải thoát Đạo Trời rộng mở,
Sự tu chơn soi tỏ linh hồn;
Đừng nên tự phụ tự tôn,
Cũng không bất cập bôn chôn rộn ràng.
Người tu tịnh hữu căn mới được,
Bằng không thì vô phước quỉ lôi;
Để mê tưởng luyến tiếc đời,
Đem mồi câu nhử rồi thời sang ngang.
Trước tu thân,
Vững tinh thần;
Đạo pháp phân.
Hễ tu tịnh ngũ quan vận chuyển,
Lúc tham thiền phát triển tâm khai;
Định, yên không vọng bên ngoài,
Gom thần tiếp chuyển đến đài Hư Vô.
Luyện chơn ngươn đáy hồ tịnh lặng
Nguyên lý tầm rửa đặng tâm không;
Vận hành chơn khí nội công,
Kết xâu xá lợi khai thông có đều.
Biết nấu thuốc riêu riêu ngọn lửa,
Để Chơn Cơ sửa chữa giác quan;
Hà phanh thể luyện nhịp nhàng,
Khãm ly biến hóa, Khôn càn định phân.
Phải biết lọc Khí, Thần, Huyết hóa,
Tinh điển truyền phát họa Bảo Ngươn;
Rồng lên cọp xuống thể phân,
Âm dương kết tụ lần lần chuyển thân.
Hống diên chế ân cần nhuận bổ,
Cân lượng đều đừng có giảm tăng;
Địa nhi hỏa vọng sanh bằng,
Tinh đầy, khí đủ, thần an mới tài.
Pháp định chuyển kêu mây, hú gió,
Giữ bình thường được ngộ Huyền Quang;
Dày công hô hấp giáng thăng,
Hậu thiên động tác để phăng Nê Hườn.
Lý siêu việt linh hồn tối yếu,
Điều hành sao đừng thiếu đừng dư;
Đảnh cao bể cả ý như,
Lóng trong gạn đục cộng trừ Hà Xa.
Luyện hồn phách biết qua xuất nhập,
Tầm song mâu bồi đấp tinh vi;
Chuyển luân tâm pháp đúng kỳ,
Để hầu đem lại Tu Di chiếu lần.
Hành trụ tọa ngọa phân nắm pháp,
Yểu yểu khai hòa hạp Huyền Huyền;
Mồ Kỷ nhị Thổ kết liên,
Minh Châu thành tựu phục nguyên đẹp màu.
Việc động tác phải sao đều ổn
Tâm cơ gìn, hễ thốn, thận suy;
Đồ thơ ôn cố tinh vi,
Giữ gìn bốn buổi chớ ly dặn lòng.
Say mùi Đạo hoát thông chơn pháp,
Mới trở về bửu pháp Phật Tiên;
Chớ cho ám ảnh, nhiễu phiền,
Tịnh ngồi đúng hướng khí thiên đủ đầy.
Tịnh cho đúng siêu khai thần, khí,
Thận định yên kiến thị Kim Đơn;
Vận hành phân tách cộng nhơn,
Rồi đem Nguyệt Khí bảo tồn Chơn Dương.
Lẽ tịnh động hai đường mà một,
Tịnh trong Động thâu được Châu Thiên;
Điều hòa chuyển vận liền liền,
Thần công thể dụng Hạo Nhiên tụ hườn.
Phép Siêu Xuất Kim Đơn chế luyện,
Không mà Có vận chuyển kịp ngày;
Cho nhằm, cho đúng nhập khai,
Để rồi kết lại thánh thai mới mầu.
Còn khi động vận thâu xuất nhập,
Để dương thần huyền pháp khai minh;
Dưỡng nuôi khí hạo trọn gìn,
Đừng cho nóng quá làm chinh Huỳnh Đình.
Hiểu tân pháp trường sinh cấu tạo,
Rán tầm cơ thông thạo công phu;
Quán canh Cửu Khiếu đừng lu,
Gắng công giồi luyện khỏi hư, khỏi mòn.
Hiểu mất, còn,
Chú niệm tròn;
Tạo lòng son.
Lò Tạo Hóa pháp môn luân chuyển,
Máy vô vi ẩn, hiện diệu huyền
Huân chưng lọc kỹ thường xuyên,
Âm Dương kết cấu đem lên Nê Hườn.
Biết trúc kỷ nhịp nhàng sắc chói,
Phép thượng đằng Sóc Hối lưỡng huyền;
Muốn thành cho được Phật Tiên,
Trường sinh qui hướng tầm nguyên chơn truyền.
Hãy cố gắng tường (tương) liên hồn xác,
Xác hóa phân, Hồn đạt bửu nguyên;
Xác kia tẩy sạch não phiền,
Thì hồn trực giác cảnh Tiên siêu đằng.
THI :
Tu đơn tụ Khí được an Thần,
Ráp máy Càn Khôn chuyển phép chân;
Bộ phận lau chùi thường bốn buổi,
Hào quang mới chiếu thấy Kim Thân.
Hỡi chư hiền đệ muội !
Phương pháp luyện tu Chơn Đạo Cao Đài, là một phương pháp “KHẮC KỶ SIÊU NHÂN” để đi đến “PHẢN HƯỜN HƯ VÔ CÀN KHÔN ĐỊNH VỊ”.
Sự vận chuyển định tịnh chế phách luyện hồn phải được “BẤT TƯỞNG NHIỄM DỤC”, biết động trong lúc tịnh, dùng cái phép “THỨC ÂM PHÁT DƯƠNG” trong Lục Căn :
HƯ CUNG ĐÀI
Kiểm Duyệt Ngày 9 Tháng 9 Bính Ngọ - (22-10-1966)
THI :
NHƯ tánh luyện tu đạo đức hành,
Ý đồ nghiệm xét lánh hư danh;
NƯƠNG theo chơn pháp lo trừ trược,
NƯƠNG lấy cơ tâm để lóng thanh.
NGUYỄN phủ khai quang hồi phước cả,
THỊ thiên vui sống tránh đường quanh;
MINH quang phóng thước dìu đời bước,
HỒNG bác độ tha đạo phúc lành.
NƯƠNG NƯƠNG mừng chư hiền đệ muội.
THI :
Hương thơm bay khắp chốn đàn tiền,
Rượu thánh mùi ngon gội phước duyên;
Kinh tả truyền ban ghi kỉnh dạ,
Khuyến tu thế đạo gắng tâm thiền.
Hôm nay NƯƠNG NƯƠNG vâng sắc chỉ NGÔI HAI GIÁO CHỦ giáng đàn tả kinh “TU CHƠN GIÁC THẾ”
Vậy chư hiền nam nữ khá tịnh tâm, tịnh đàn nghe NƯƠNG NƯƠNG chỉ giáo :
CHƠN ĐẠO
Đời là cõi tạm, có rồi không, hiệp rồi tan, sanh rồi tử…. Còn Đạo dầu rằng không hình tướng, nhưng biến hóa vô cùng, mầu nhiệm. Khi con người thuận nhận và biết đặt mình vào khuôn trường Chơn Đạo, rồi mới thấy tác dụng mầu nhiệm siêu ứng là dường nào.
Hôm nay NƯƠNG NƯƠNG không muốn diễn tả lại những lẽ thông thương như phần phổ giáo công truyền nhập thế, mà NƯƠNG NƯƠNG dẫn giải sau đây :
Tu nghĩa là gì ?
Hẳn chư hiền đệ muội cũng đã am hiểu là sửa, là trau giồi tâm tánh để trở thành con người đạo đức, mà một khi con người biết sửa được sự lỗi lầm, sai quấy, biết đối xử cái Đạo làm người rồi tức là : CON NGƯỜI ĐÃ THÀNH CON NGƯỜI. Ví dụ như : người uống rượu, bạc cờ mà bỏ được đó là thành trong sự việc, cũng tạm gọi là con người thành tại thế với những lỗi lầm, bịnh tật lôi cuốn con người mà bỏ được. Có phải là thành NGƯỜI chăng ? Và khi được hoán cải được trọn lành tức là bước vào hàng siêu nhân. Từ cái thành bực siêu nhân được vào trường Tu Tịnh phần Chơn Đạo, người tu rất dễ trở lại ngôi xưa vị cũ, tác thành Tiên Phật để xa lánh cõi trần ô trược kềm buộc.
Vậy người tu cần phải TU LUYỆN, tu luyện Đạo để siêu phàm nhập Thánh.
Nhưng trước khi muốn luyện tu Chơn Đạo, chư hiền đệ muội phải tâm thức về nhơn đạo, cụ thể hóa như đối với việc gia đình, đừng để có sự trì níu, hầu có yên tâm, rảnh trí ngồi tu tịnh luyện.
HƯ VÔ CHƠN PHÁP :
Tiên Thiên diệu pháp biết tầm tu,
Mở cửa vô vi vạt ngút mù;
Bể khổ lấp lần xa nghiệp chướng,
Đường mê tránh khỏi được khinh phù.
Tà tâm diệt dứt rèn tâm huệ,
Linh tánh sáng soi phá tánh ngu;
Ích kỷ hại nhơn đừng học hỏi,
Bồng Lai bước tới cảnh nhàn du.
BÀI :
Đường giải thoát Đạo Trời rộng mở,
Sự tu chơn soi tỏ linh hồn;
Đừng nên tự phụ tự tôn,
Cũng không bất cập bôn chôn rộn ràng.
Người tu tịnh hữu căn mới được,
Bằng không thì vô phước quỉ lôi;
Để mê tưởng luyến tiếc đời,
Đem mồi câu nhử rồi thời sang ngang.
Trước tu thân,
Vững tinh thần;
Đạo pháp phân.
Hễ tu tịnh ngũ quan vận chuyển,
Lúc tham thiền phát triển tâm khai;
Định, yên không vọng bên ngoài,
Gom thần tiếp chuyển đến đài Hư Vô.
Luyện chơn ngươn đáy hồ tịnh lặng
Nguyên lý tầm rửa đặng tâm không;
Vận hành chơn khí nội công,
Kết xâu xá lợi khai thông có đều.
Biết nấu thuốc riêu riêu ngọn lửa,
Để Chơn Cơ sửa chữa giác quan;
Hà phanh thể luyện nhịp nhàng,
Khãm ly biến hóa, Khôn càn định phân.
Phải biết lọc Khí, Thần, Huyết hóa,
Tinh điển truyền phát họa Bảo Ngươn;
Rồng lên cọp xuống thể phân,
Âm dương kết tụ lần lần chuyển thân.
Hống diên chế ân cần nhuận bổ,
Cân lượng đều đừng có giảm tăng;
Địa nhi hỏa vọng sanh bằng,
Tinh đầy, khí đủ, thần an mới tài.
Pháp định chuyển kêu mây, hú gió,
Giữ bình thường được ngộ Huyền Quang;
Dày công hô hấp giáng thăng,
Hậu thiên động tác để phăng Nê Hườn.
Lý siêu việt linh hồn tối yếu,
Điều hành sao đừng thiếu đừng dư;
Đảnh cao bể cả ý như,
Lóng trong gạn đục cộng trừ Hà Xa.
Luyện hồn phách biết qua xuất nhập,
Tầm song mâu bồi đấp tinh vi;
Chuyển luân tâm pháp đúng kỳ,
Để hầu đem lại Tu Di chiếu lần.
Hành trụ tọa ngọa phân nắm pháp,
Yểu yểu khai hòa hạp Huyền Huyền;
Mồ Kỷ nhị Thổ kết liên,
Minh Châu thành tựu phục nguyên đẹp màu.
Việc động tác phải sao đều ổn
Tâm cơ gìn, hễ thốn, thận suy;
Đồ thơ ôn cố tinh vi,
Giữ gìn bốn buổi chớ ly dặn lòng.
Say mùi Đạo hoát thông chơn pháp,
Mới trở về bửu pháp Phật Tiên;
Chớ cho ám ảnh, nhiễu phiền,
Tịnh ngồi đúng hướng khí thiên đủ đầy.
Tịnh cho đúng siêu khai thần, khí,
Thận định yên kiến thị Kim Đơn;
Vận hành phân tách cộng nhơn,
Rồi đem Nguyệt Khí bảo tồn Chơn Dương.
Lẽ tịnh động hai đường mà một,
Tịnh trong Động thâu được Châu Thiên;
Điều hòa chuyển vận liền liền,
Thần công thể dụng Hạo Nhiên tụ hườn.
Phép Siêu Xuất Kim Đơn chế luyện,
Không mà Có vận chuyển kịp ngày;
Cho nhằm, cho đúng nhập khai,
Để rồi kết lại thánh thai mới mầu.
Còn khi động vận thâu xuất nhập,
Để dương thần huyền pháp khai minh;
Dưỡng nuôi khí hạo trọn gìn,
Đừng cho nóng quá làm chinh Huỳnh Đình.
Hiểu tân pháp trường sinh cấu tạo,
Rán tầm cơ thông thạo công phu;
Quán canh Cửu Khiếu đừng lu,
Gắng công giồi luyện khỏi hư, khỏi mòn.
Hiểu mất, còn,
Chú niệm tròn;
Tạo lòng son.
Lò Tạo Hóa pháp môn luân chuyển,
Máy vô vi ẩn, hiện diệu huyền
Huân chưng lọc kỹ thường xuyên,
Âm Dương kết cấu đem lên Nê Hườn.
Biết trúc kỷ nhịp nhàng sắc chói,
Phép thượng đằng Sóc Hối lưỡng huyền;
Muốn thành cho được Phật Tiên,
Trường sinh qui hướng tầm nguyên chơn truyền.
Hãy cố gắng tường (tương) liên hồn xác,
Xác hóa phân, Hồn đạt bửu nguyên;
Xác kia tẩy sạch não phiền,
Thì hồn trực giác cảnh Tiên siêu đằng.
THI :
Tu đơn tụ Khí được an Thần,
Ráp máy Càn Khôn chuyển phép chân;
Bộ phận lau chùi thường bốn buổi,
Hào quang mới chiếu thấy Kim Thân.
Hỡi chư hiền đệ muội !
Phương pháp luyện tu Chơn Đạo Cao Đài, là một phương pháp “KHẮC KỶ SIÊU NHÂN” để đi đến “PHẢN HƯỜN HƯ VÔ CÀN KHÔN ĐỊNH VỊ”.
Sự vận chuyển định tịnh chế phách luyện hồn phải được “BẤT TƯỞNG NHIỄM DỤC”, biết động trong lúc tịnh, dùng cái phép “THỨC ÂM PHÁT DƯƠNG” trong Lục Căn :
THI :
THẤY mà không tham, không muốn,
NGHE mà chẳng động, chẳng cảm;
NGỬI mà không say, không mê,
NẾM mà chẳng thèm, chẳng nghĩ.
MÌNH giữ đặng sạch, đặng khỏe,
Ý giữ đặng lành, đặng vui.
THẤY mà không tham, không muốn,
NGHE mà chẳng động, chẳng cảm;
NGỬI mà không say, không mê,
NẾM mà chẳng thèm, chẳng nghĩ.
MÌNH giữ đặng sạch, đặng khỏe,
Ý giữ đặng lành, đặng vui.
Tóm lại là “SẮC TỨC THỊ KHÔNG, KHÔNG TỨC THỊ SẮC”. Hỡi chư hiền đệ muội !
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét